đã tốn hàng thế kỷ để ngăn chặn. Hành động phá vỡ tính trung lập của Bỉ -
quốc gia được Anh thề sẽ bảo vệ theo Hiệp ước London năm 1839 - đã kích
động dư luận ở Anh và khiến chính phủ cầm quyền của Đảng Tự do vốn
đang bị chia rẽ về việc liệu có nên tham gia vào cuộc xung đột hay không
trở nên thống nhất. Tuy nhiên, Anh tham chiến chủ yếu là bởi các đánh giá
cho rằng những lợi ích quốc gia quan trọng của nước này sẽ bị xâm phạm
nếu Đức thành công trong nỗ lực trở thành bá chủ châu Âu. Các yếu tố an
ninh dẫn dắt Anh và Đức tới chiến tranh đã hết sức rõ ràng. Như Ngoại
trưởng Edward Grey đã phát biểu trước Quốc hội vào ngày 3 tháng 8, nước
Anh không thể chấp nhận việc “toàn bộ phía Tây của châu Âu đối diện với
chúng ta… nằm dưới sự thống trị của một cường quốc duy nhất”
Như kết luận súc tích của Paul Kennedy, các lãnh đạo Anh và Đức cho
rằng cuộc đối đầu vào năm 1914 giữa họ “là sự tiếp nối của những gì đã xảy
ra trong vòng ít nhất 15 hay 20 năm qua” và bắt đầu “bởi vì Anh mong
muốn duy trì hiện trạng, trong khi Đức, xuất phát từ các một loạt các động
cơ tấn công và phòng thủ khác nhau, đã tiến hành nhiều bước đi nhằm thay
thế hiện trạng đó”.
“Chuyển hướng dòng chảy chết chóc”
Những nghịch lý xuất hiện năm 1914 một mặt là sự phân ly giữa các quốc
gia sau nhiều năm căng thẳng trước viễn cảnh chiến tranh và chuẩn bị cho
cuộc chiến sắp tới, mặt khác là cú sốc trước tốc độ rơi vào hỗn loạn của toàn
bộ lục địa châu Âu. Đại Công tước Franz Ferdinand bị sát hại vào ngày 28
tháng 6. Ngày 9 tháng 7, quan chức cấp cao nhất của Văn phòng Đối ngoại
Anh nghi ngờ về việc “liệu Áo có thể tiến hành bất cứ hành động mang tính
chất nghiêm trọng nào hay không” và dự đoán về “một cơn bão có thể thổi
qua”. Cho đến trước khi nghe về tối hậu thư của Áo gửi tới Serbia vào ngày
25 tháng 7, sự chú ý của Churchill và của nội các chủ yếu tập trung vào
nguy cơ xung đột dân sự ở Ireland. Chưa đầy hai tuần sau, châu Âu chìm
trong chiến tranh.