phát, tôi đã vay 1.100 đô la nhưng chỉ trả lại anh 550 đô-la. Lạm phát ngoài
dự kiến chỉ có lợi cho những người vay nợ và gây thiệt hại cho chủ nợ.
Lạm phát cũng làm thay đổi thuế. Hãy lấy thuế đánh vào lãi tư bản làm
ví dụ. Giả sử, bạn mua một cổ phiếu và bán nó một năm sau đó để kiếm
10% tiền lãi. Nếu tỷ lệ lạm phát cũng là 10% trong thời gian đó, thì lợi
nhuận bạn thu về sẽ bằng 0. Tiền lãi của bạn chỉ đủ bù đắp lại 10% giá trị
mà mỗi đồng đô-la trong danh mục đầu tư của bạn đang mất đi. Trong khi
đó, bạn vẫn nợ tiền thuế đánh vào “tiền lãi” 10% của mình. Thật không dễ
chịu gì khi phải nộp thuế cho những khoản bạn kiếm được, nhưng sẽ còn
khó chịu hơn nhiều khi bạn phải nộp thuế cho cả những khoản không có
thực trên thực tế.
Nói tóm lại, lạm phát vừa phải với một tỷ lệ ổn định hoặc có thể dự đoán
được sẽ ít gây những ảnh hưởng tiêu cực hơn. Ví dụ, giả sử, chúng ta biết
tỷ lệ lạm phát sẽ luôn duy trì ở mức 10% một năm, không hơn, không kém.
Khi đó, chúng ta có thể dễ dàng đối phó. Bất kỳ tài khoản tiết kiệm nào
cũng sẽ trả một mức lãi suất thực tế cộng thêm 10% bù đắp cho lạm phát.
Lương của chúng ta sẽ tăng 10% một năm (cộng thêm, như chúng ta hy
vọng, một khoản phụ thêm nào đó dựa trên thành tích). Tất cả các khế ước
cho vay đều sẽ tính một tỷ lệ thuê tư bản thực tế cộng thêm 10% phí thường
niên cho tài khoản đó vì những đồng đô-la bạn đang vay sẽ có giá trị khác
đi khi bạn trả lại. Lợi ích của chính phủ sẽ được điều chỉnh theo lạm phát
và cả các loại thuế cũng vậy.
Nhưng lạm phát không ổn định và không dễ đoán trước. Thực tế, sự
không chắc chắn là một trong những chi phí khó xác định nhất của lạm
phát. Các cá nhân và các công ty buộc phải dự đoán giá cả tương lai khi ra
các quyết định kinh tế. Khi các công nhân và hãng Ford đàm phán một hợp
đồng bốn năm, cả hai phải dự kiến tình hình lạm phát trong tương lai. Một
hợp đồng với mức tăng lương 4% hàng năm là cực kỳ hào phóng khi tỷ lệ
lạm phát là 1% nhưng lại là một thỏa thuận tệ hại cho các công nhân nếu tỷ