phục những cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế. IMF cũng được thành lập
ở Bretton Woods với tư cách một thể chế hợp tác toàn cầu. Các thành viên
đóng góp tiền cho IMF; đổi lại họ có thể vay tiền vào những lúc khó khăn
“với điều kiện tiến hành cải cách kinh tế để xóa bỏ những khó khăn này vì
lợi ích của chính họ và vì lợi ích của tất cả các thành viên.” Khi một nước
như Thổ Nhĩ Kỳ hay Argentina thừa nhận công khai rằng họ sắp sửa rơi
vào một cuộc khủng hoảng tài chính, thì một trong những cuộc điện thoại
đầu tiên sẽ được kết nối tới IMF. IMF không đòi hỏi bất kỳ nước nào phải
chấp nhận các khoản vay hay những lời khuyên từ IMF hoặc Ngân hàng
Thế giới. Cả hai tổ chức đều giành được sức mạnh và tầm ảnh hưởng nhờ
những sự hứa hẹn trong tay mình.
Rất ít thể chế lại bị một lực lượng đông đảo trong giới chính trị chỉ trích
như Ngân hàng Thế giới và IMF. Tờ The Economist đã bình luận: “Nếu các
nước đang phát triển có một đô-la cho mỗi đề xuất thay đổi ‘cấu trúc tài
chính quốc tế,’ thì vấn đề đói nghèo của thế giới thứ ba sẽ được giải quyết.”
Những người bảo thủ buộc tội Ngân hàng và IMF là những tổ chức quan
liêu lãng phí nguồn lực vào những dự án không giúp các quốc gia thoát
khỏi đói nghèo. Họ cũng tranh cãi rằng những cứu trợ tài chính của IMF
làm cho các cuộc khủng hoảng tài chính có khả năng xảy ra ngay từ đầu;
những nhà đầu tư thiếu thận trọng khi cho vay những khoản vay quốc tế bởi
họ tin rằng IMF sẽ cứu giúp một đất nước khi rơi vào tình thế nguy khốn.
Năm 2000, Quốc hội do Đảng dân chủ nắm quyền đã triệu tập một hội
đồng đề nghị thu hẹp và kiểm tra lại cả Ngân hàng Thế giới lẫn Quỹ Tiền tệ
Quốc tế.
Một liên minh chống toàn cầu hóa đã buộc tội Ngân hàng Thế giới và
IMF rằng những tổ chức này đã hành động như thể những tay sai của chủ
nghĩa tư bản, áp đặt toàn cầu hóa lên các nước đang phát triển và khiến các
nước nghèo sa lầy trong những khoản nợ khổng lồ. Những cuộc họp của
hai tổ chức đã trở thành dịp để những phản kháng bạo lực diễn ra. Khi hai
thể chế tổ chức cuộc họp mùa thu ở Prague vào năm 2000, cả nhà hàng