nguyên thủy này là hình thức duy nhất có thể tồn tại phát triển trong những
điều kiện của môi trường, thảo nguyên mà chính pháp luật cũng công nhận,
chỉ hạn chế bằng cách quy định diện tích đất đai, và số lượng đầu gia súc mà
các chủ trại phải có. Cách săn bắt này không phải chỉ là một công việc, mà
còn là một môn thể thao rất ưa thích của người thảo nguyên. Ở nơi thảo
nguyên không có rào giậu này, bạo lực vẫn còn là hợp pháp.
Sau khi suy nghĩ vậy, Santos kết luận:
— Lối săn lùng dồn đuổi vây bắt súc vật này có hại cho việc thúc đẩy
phát triển chăn nuôi, bởi vì nó phá hủy sự kích thích. Tất cả những lề lối ấy
sẽ mất đi, nếu luật lệ về đồng cỏ bắt buộc các chủ trại phải rào đồn điền của
mình lại.
Nhưng Antonio cãi lại:
— Có thể ông nói có lý, nhưng muốn làm được việc ấy thì trước hết
cần phải thay đổi cả lối sống của người thảo nguyên. Người thảo nguyên
không thừa nhận hàng rào. Họ muốn rằng đồng cỏ của họ mở toang như
Trời-Đất đã sinh ra nó. Họ thích như vậy, chính là để được “tóm gọn” những
con vật nào rơi vào vòng dây thừng của họ. Nếu người ta tước của họ cái sở
thích đó, họ sẽ chết vì buồn. Một người thảo nguyên lấy làm hài lòng, khi có
thể nói: hôm nay tôi đã tóm được mấy con bò, và không quan tâm mấy khi
người ở vùng lân cận của mình cũng nói tương tự, bởi vì người thảo nguyên
luôn tin rằng súc vật của anh ta vẫn an toàn, còn những súc vật mà người
vùng lân cận tóm được là của người khác.
Tuy nhiên, Santos vẫn nghĩ đến sự cần thiết phải làm cho mọi người
quen với cái hàng rào. Từ việc này, sẽ bắt đầu việc khai hóa vùng thảo
nguyên: hàng rào trở thành luật lệ chống lại bạo lực cường quyền, đó là sự
hạn chế cần thiết của con người trước những vấn đề nguyên tắc.
Và như vậy thì thực sự anh đã có một công trình riêng của người văn
minh khai hóa: Bổ sung điều luật “bắt buộc phải có hàng rào” vào bộ Luật
đồng cỏ.