biệt khi ở giữa một vùng đồng cỏ mênh mông và im lìm. Có thể vì Santos
như khóm cỏ thảo nguyên đang héo dần trong chậu cảnh.
Thỉnh thoảng bà Asunción bắt chợt con trai đang nằm mơ mộng ở trong
vườn, mặt ngửa lên trời, giữa một đám cây hoa reseda
không người chăm
sóc. Anh đang “nuối tiếc” như người thảo nguyên thường nói về một con bò
đực bị thiến ẩn núp trong lùm cây mấy ngày liền, không ăn không uống,
thỉnh thoảng lại rống lên mấy tiếng giận dữ bất lực, vì bị mất tinh năng và uy
quyền của con đực trong đàn.
Nhưng cuối cùng thành phố cũng chinh phục được tâm hồn hoang dã
của Santos. Tuy anh vẫn trăn trở với nỗi nhớ quê, nhưng anh đã trên mười
tám tuổi đời. Về mặt học vấn, anh mang từ Arauca về quá ít, nhưng anh
quyết giành lại thời gian đã mất, và lao vào học tập mải mê.
Mặc dù bà Asunción có nhiều lý do để chán ghét cái trại Altamira,
nhưng bà vẫn không muốn bán. Bà vẫn có tâm hồn khỏe khoắn và cố chấp
của người thảo nguyên, bà vẫn thấy không có nơi nào bằng quê hương của
mình. Và mặc dù không bao giờ nghĩ đến việc trở về Arauca, bà cũng không
muốn từ bỏ quyền sở hữu nó gắn bó bà với mảnh đất ấy. Vả lại bà vẫn còn
có người quản lý trung thực, và cái trại ấy vẫn cung cấp cho bà một khoản
thu nhập đủ dùng.
— Để Santos nó bán, khi nào tôi chết – Bà thường nói như thế. Nhưng
trước khi chết, bà lại dặn con:
— Khi nào con còn có thể… Con đừng bán trại Altamira.
Santos đã tuân theo lời mẹ dặn, vì tôn trọng ý muốn cuối cùng của mẹ,
vả lại nguồn lợi của trại cho phép anh trang trải một cách thoải mái những
nhu cầu hạn chế của cuộc sống giản dị. Về mặt khác, anh có thể bán trại.
Mảnh đất quê hương ấy, tất cả đất nước này cũng không còn có sức hấp dẫn
thu hút anh nữa, bởi vì khi đã mất tình cảm đối với quê hương thì cũng mất
luôn tình cảm đối với đất nước. Cuộc sống ở thành phố và lối sống của
người trí thức đã xóa nhòa trong tâm trí anh những khuynh hướng về cuộc
sống tự do hoang dã ở trại chăn nuôi, nhưng đồng thời cũng là nguồn gốc