— Tội nghiệp, anh Lorenzo còn sống ư?
— Nếu còn thở mà có thể gọi là sống thì nó còn sống đấy. Ở đây, người
ta gọi nó là “Bóng ma của trại Barquereña”. Chỉ có bộ da bọc xương. Người
ta nói rằng chính Doña Bárbara làm cho nó thân tàn ma dại như vậy. Nhưng
tôi thì tôi cho rằng chính Thượng Đế đã trừng phạt nó, bởi vì nó bắt đầu
sống héo hắt ngay từ lúc ông José nhà ta cắm găm nó vào bức tường đất.
Mặc dù Santos không hiếu hết ý nghĩa câu sau cùng Antonio muốn nói
gì, anh bực mình vì hắn đã đưa cha anh vào chuyện ấy. Anh lảng chuyện,
hỏi về đàn bò đang ăn cỏ gần đấy.
Mặt trời tắt hẳn nhưng ánh hoàng hôn trên thảo nguyên còn kéo dài
thêm một lúc lâu ở phía chân trời với một dải hào quang màu sẫm bị cắt xén
bởi một đường vòng cung rõ rệt của đồng cỏ. Trong khi ở phia chân trời đối
diện, trên cái nền trong suốt xa thẳm của khoảng đất im ắng, mặt trăng tròn
bắt đầu nhú lên. Ánh sáng long lanh giát bạc lên những đống rơm mỗi lúc
một thêm rực rỡ, và phơ phất như một cánh buồm ở xa thăm thẳm. Khi họ
về đến khu nhà ở của trại Altamira thì đêm đã khuya.
Một ngồi nhà lớn, tường đất nện, mái lợp ngói, có hiên rộng lợp kẽm
chạy xung quanh. Phía trước nhà có một cây sào chặn ngang để ngăn không
cho bò ngựa vào. Phía sau sân nhà có mấy cây không cao lắm. Người thảo
nguyên không ưa cây cao ở gần nhà vì sợ sét. Sau sân là bếp với một vài
gian chứa sắn, chuối và đậu dùng làm thức ăn cho người. Bên phải là những
túp liều, nơi ăn nghỉ của người làm công. Giữa những túp liều đó là nơi để
thịt ướp muối, phơi nắng, phơi gió, ruồi nhặng bâu dày. Bên trái là chỗ để
ngô bắp, bí quả. Bên cây mê-rê-cu-rê
, cành lá xum xuê có chuồng gà, có
tàu ngựa và những cột để buộc ngựa, có sân nuôi gà vịt và chuồng lợn. Tất
cả hợp lại thành khu trang trại Atamira cho cụ tổ Don Evaristo Luzardo xây
dựng từ những năm xa xưa, chỉ trừ những mái lợp kẽm của ngôi nhà lớn là
do bố Santos sửa sang lại cho tốt hơn mà thôi. Đó là cơ ngơi đầu tiên thô sơ,
nơi trú ẩn của một cuộc sống bán hoang dã giữa vùng hẻo lánh.