những mệnh lệnh vào tai ta. Luôn nhảy tới một bước rất gần và đặt tên ta là
Yelp.”
Và những cái tên kiểu đó cứ theo họ suốt đời.
“Người vô hình” nhìn tôi và khẽ nở nụ cười, nhưng không lý giải tên
mình. Tôi cũng không hỏi - có điều gì đó ở ông, và tôi không muốn đánh
liều làm ông mất đi sự nhã nhặn chỉ để thỏa mãn lòng hiếu kỳ của mình.
Sự tập trung của Gunny vào ván cờ không tốt chút nào. Lúc thì ông quên
mất đã đi nước cờ gì, lúc lại quên bây giờ tới lượt ai. Đôi khi ông bị cuốn
vào những câu chuyện vu vơ và quên mất ông vẫn chưa đi cờ. Tôi không cố
nhắc ông, trừ phi trông ông có vẻ bối rối. Thật lòng mà nói, tôi thích nghe
chuyện ông và những người bạn của mình say xỉn trong một lâu đài bỏ
hoang và cố gắng dạy một con bò trượt tuyết. Thật khó tưởng tượng ra một
ông lão lại có năng lượng như vậy, nhưng có lẽ khi bắt đầu đi lính, ông
cũng không già hơn tôi bây giờ là mấy.
Thỉnh thoảng Yelp nhìn qua bàn cờ của tôi và lắc đầu, trao cho tôi một
ánh nhìn gượng gạo. Còn tôi thì chỉ nhún vai, nhưng không cố gắng giải
thích. Tôi có lý do riêng của mình.
Gunny ngủ gật khi chúng tôi đang chơi dở ván thứ hai. Một trong những
cựu binh trở về từ chiến tranh Triều Tiên, tự giới thiệu tên mình là Pierce,
khoác cho ông một tấm chăn lên vai, luồn chăn xuống cằm và tay ông.
“Trung tâm thương mại mời chúng ta tới dùng cà phê của họ,” ông nói với
giọng điệu cộc cằn, và ngượng nghịu do chính lòng tốt của ông, tôi nghĩ.
“Gunny nói rằng ông đã già, nhưng chưa chết, và chúng ta sẽ ở ngoài trời
hoặc là chẳng ở đâu cả.”
“Chẳng có gì sai với lòng tự tôn cả,” tôi đáp. “Ít nhất là khi ông có
những người anh em để chia sẻ những nỗi bực dọc này.”
Ông nháy mắt với tôi, cái nháy mắt khiến tôi khẽ rùng mình, và ông
cười.
“Có lẽ cháu nên về thôi. Còn vài việc ở trường cháu cần làm xong trước
ngày mai.” Tôi đứng dậy khỏi băng ghế, giãn những khối cơ đã cứng đờ và