Tôi đã tốn năm năm để khắc sâu vào tận xương tủy thực tế rằng Chavi đã
mãi mãi ra đi, nhưng điều đó đôi khi vẫn không thể giúp ký ức thôi rỉ máu,
không thể ngăn những cơn ác mộng dựng tôi dậy mà đầm đìa mồ hôi và
họng khản rát vì la hét. Tôi không biết điều gì có thể ngăn chặn chúng mãi
mãi.
Mẹ lắc mạnh tôi một cái để gọi tôi dậy, đôi tay bà vòng qua người tôi
trước khi tôi kịp mở mắt, trước khi tôi có thể nghe được tiếng vọng rằng tôi
đang an toàn, trên chiếc giường trong căn hộ đi thuê của chúng tôi ở
Huntington, cách rất xa khu nhà thờ mà chúng tôi từng ở tại Boston nơi tôi
nhìn thấy chị gái mình lần cuối. Những cơn ác mộng không có dạng thức
cố định - chẳng có cách nào đoán nổi điều gì đã khiến tôi gặp ác mộng -
nhưng chúng xảy ra thường xuyên tới độ phát triển thành một thói quen xử
lý chính chúng.
Trong khi tôi vào phòng tắm xối nước lạnh lên người, mẹ thu dọn ga
giường đã đẫm mồ hôi của tôi và xuống phòng giặt ủi dưới lầu. Khi bà
quay lại, trên tay cầm hai bình trà, tôi đã thay xong bộ pajama mới và yên
vị trên giường bà. Cả hai chúng tôi đều không muốn tôi phải ở một mình
sau mỗi giấc mơ như vậy, nhưng tôi sẽ không ngủ lại được nữa và tôi
không muốn bà cũng mất ngủ vì phải ngồi với tôi cả đêm, cho nên đó là
thỏa thuận của chúng tôi. Chúng tôi sẽ xem một chiếc đĩa DVD và mẹ sẽ
lăn ra ngủ khi xem được một nửa tập đầu tiên của chương trình Thiên nhiên
trên kênh BBC.
Tôi mang nhật ký của mình vào phòng mẹ, nhưng không thật sự cảm
nhận được nó. Đã nhiều năm những cơn ác mộng xuất hiện trong hàng tá
cuốn nhật ký của tôi; kể cho Chavi nghe về một giấc mơ như thế cũng
chẳng ích gì.
Có lẽ kể cho người khác lại tốt hơn.
Bức thư của Inara kẹp ở đầu cuốn sổ, nó đã ở đó trong suốt vài tuần qua.
Có lẽ cuối cùng tôi cũng biết trả lời cô như thế nào.
Inara thân mến,