quả khem bỏ bạc vào đó đến gặp vợ thầy nói:
- Thưa cô con đã bảo anh ta là một người rất hào hiệp, khi tới đây rất may
có một người đem trả bốn mươi lạng bạc. Khi con nhắc tới chuyện này anh
ấy bèn đưa luôn, con bảo anh ấy để số tiền lãi lại, anh ấy bảo: "Cứ mang cả
đi tôi sợ rằng bằng ấy vẫn chưa đủ”. Con mang ngay tới đây cho cô.
- Tôi chỉ cần bốn năm lạng thôi, số còn lại xin phiền anh hoàn lại cho anh
ấy.
- Tiên sinh sống một đời gàn dở, tất cả đều nhờ cô, nay của tự nhiên đến thì
cứ lấy mà chi dùng, cô đừng ngại.
Mã thị còn do dự thì Hạ Học đã chào rồi đi một mạch ra cửa. Tuệ Nương
nói:
- Mẹ ạ! Anh họ Phú là một người rất keo kiệt, sao lại giúp nhiều như vậy?
Dù nhà mình nghèo mẹ cũng nên trả lại anh ta đi.
Đến ngày đưa linh cữu ra đồng, mọi người chung nhau phúng viếng, chỉ có
Phú Nhĩ Cốc không chung với ai, tự làm một bài văn tế tới tế, bài văn tế
như sau:
Ô hô! Tiên sinh bố vợ của ta,
Nghèo khổ một đời, theo nghề dạy học.
Thức khuya dậy sớm, đọc sách giảng bài. ăn mặc xuềnh xoàng, áo vải khăn
thâm.
Đầu bù râu rậm, cần kiệm thật thà.
Không được đỗ cao, bảng vàng mả đá.
Bỗng nhiên lâm bệnh, vội vã ra đi.
Thầy nghĩ đến con, theo học lâu ngày.
Cho tới hôm nay, coi con là rể.
Thương tình cốt nhục, lệ nhỏ đầm dìa.
Tỏ rõ lòng thành, xin dâng lễ bạc,
Lợn đen dê trắng, thay thế bạc tiền, ô hô! Thương thay, thượng hương.
Hạ Học nghe xong nói:
- Hay, hay tuyệt.
- Mình viết không cần phải suy nghĩ gì mà cũng gieo vần đấy chứ. - Phú
Nhĩ Cốc nói.