số phận mà phía trước hiện lên ánh lửa của chuồng cừu gần nhất thì hoá ra
– thật may mắn không thể hơn được nữa! – đấy là chuồng cừu của Bôxton
Urkuntriếp. Đúng, đúng, đấy chính là anh chàng Bôxton lao động tiên tiến
nhưng keo kiệt mà Badarbai không hề có thiện cảm. Nhưng giờ đây anh ta
không quan tâm đến việc ai ưa ai. Có gì khác nhau đâu, đối với anh ta thì
bất kì một người nào vào lúc này cũng quý giá như cuộc sống của anh ta
vậy. Cái chính là anh ta đã gặp được trên đường một nơi có người ở – đó là
niềm vui, đó là khả năng thoát chết của anh ta! Anh ta hân hoan phấn chấn,
anh ta lấy gót thúc ngựa, và con ngựa như được tăng thêm sức lực, lao thêm
nhanh về phía có người, có đàn cừu. Tuy nhiên, Badarbai vẫn cảm thấy như
hàng thế kỷ trôi qua trước khi anh ta dám tự nhủ rằng anh ta có thể hy vọng
vào kết cục tốt đẹp. Nhưng kìa, đã nghe thấy tiếng máy nổ của Bôxton nổ
ầm ầm như súng máy, lũ chó chăn cừu đã náo động lên và vừa lo ngại sủa
vang vừa lao về phía anh ta. Song cả lũ sói cũng không chịu chậm lại,
chúng tiến đến mỗi lúc một gần. Con ngựa gần kiệt sức và Badarbai đã cảm
thấy hơi thở nóng bỏng của chúng. “Lạy chúa Baubêđin, Người hãy cứu
con – anh ta hối hả cầu khẩn, – con sẽ cúng dâng Người bảy đầu súc vật!”.
“Thoát rồi! Thoát rồi!” – Badarbai hân hoan sung sướng.
Tất nhiên là chưa đầy một giờ sau anh ta sẽ quên bẵng những lời hứa hẹn
của anh ta, con người vốn là như vậy…
Nhưng vào lúc những người chăn cừu chạy đến cứu anh ta, anh ta đúng
là ngã vào tay họ, thỉnh thoảng lại nhắc đi nhắc lại:
– Chó sói, chó sói đuổi theo tôi! Nước, cho tôi uống nước!
Còn hai con sói thì rõ ràng vẫn lảng vảng gần đây, không chịu đi, kiên trì
chờ đợi. Trại trú đông của Bôxton náo động lên – đám chăn cừu chạy vào,
đóng cửa các bãi chăn lại, gọi nhau ơi ới trong bóng tối. Một người leo lên
mái, bắn mấy loạt đạn. Lũ chó lao xao sủa vang nhưng không dám chạy ra
sân. Chúng lại gần ánh sáng, thái độ hèn nhát ấy của chúng khiến những