với bé hồi lâu. Anh cũng thường tự tay tắm cho bé trong chiếc chậu to, sau
khi đã đốt lò cho thật ấm và đóng kín mọi cửa ra vào và cửa sổ. Hàng xóm
láng giềng cho rằng lúc về già anh đâm ra quá nuông con, trước đây anh
đâu có như vậy.
Trước đây anh yêu công việc hơn yêu con cái. Những đứa con lớn của
anh nay đã trở thành bố mẹ cả, có cuộc sống riêng của mình. Chúng chỉ
thỉnh thoảng tạt qua nhà, còn đứa con út thì bao giờ cũng đáng yêu nhất,
bao giờ cũng được yêu mến nhất. Mọi chuyện đúng là như vậy, nhưng chỉ
riêng chị, Guliumcan là hiểu được nguyên nhân thật sự và cay đắng của
việc Bôxton gắn bó với bé Kengies. Vì trước đây cả anh lẫn chị đều chẳng
bao giờ nghĩ rằng họ sẽ trở thành vợ chồng và sinh con trai. Nếu như người
chồng cũ của chị là Ernadar không bị thiệt mạng trên đèo Ala-Mônguy và
nếu như tiếp theo đó người vợ trước của Bôxton là Ardưgun, không bị chết,
thì việc đó chẳng bao giờ xảy ra cả. Họ cố không nhớ lại quá khứ mặc dù
họ biết rằng khi một mình một bóng thì người nào cũng nghĩ đến quá khứ…
Còn đứa bé là sợi dây chung ràng buộc họ với nhau, họ phải trả giá quá đắt
mới có được. Vì con đường lên đèo Ala-Mônguy là do Bôxton khai phá, và
Ernadar, người giúp việc của anh đã thiệt mạng trước mắt anh và vĩnh viễn
nằm lại đó, dưới đáy khe núi sâu thẳm… Chỉ đứa bé mới lấp đầy được
khoảng trống này trong tâm hồn anh, bởi vì từ xưa người ta đã nói rằng chỉ
sự ra đời mới có thể bù đắp được cái chết.
Nhưng kìa, tiếng bước chân đã vang lên, Guliumcan nhanh nhẹn bước ra
đón chồng, giúp chồng tháo ủng rồi đem đến nước, xà phòng, khăn mặt. Chị
lặng lẽ đổ nước vào hai tay chồng, nhưng tạm thời họ chưa chuyện trò với
nhau. Họ sẽ chuyện trò với nhau về sau, trong lúc uống trà. Lúc đó, Bôxton
sẽ mở đầu câu chuyện bằng câu mào đầu ưa thích của anh: “Bây giờ em sẽ
nghe nhé, trên đời thật chẳng thiếu gì chuyện…”. Rồi anh sẽ kể những gì
anh nhìn thấy, những gì mới mẻ mà anh biết được. Và vào những phút như
thế, khi chỉ có hai vợ chồng với nhau, cả hai đều cảm thấy hạnh phúc. Một