lại là chính chị đã than khóc và đập đầu vào tường đau đớn như thế nào khi
người chồng cũ của chị là Ernadar bị chết trên đèo Ala-Mônguy. Chị cảm
thấy một nỗi buồn da diết, nhức nhối. Chị phải nỗ lực lắm mới kìm mình
được, mới không kể cho Bôxton nghe chị nghĩ gì và cảm thấy gì trong
những phút này.
Họ cứ nằm thao thức như vậy, chỉ có bé Kengies là hồn nhiên say sưa
ngủ. Và trong lúc nghe những hồi hú dài không ngớt của con sói cái Acbara
than khóc lũ sói con bị bắt cóc, chị càng lo lắng hơn cho đứa con của chị
mặc dù không có gì đe doạ nó.
Bên trên các ngọn núi, ánh bình minh đã bắt đầu loé rạng. Bóng tối trên
trời tan dần sau khi đã hoàn thành công việc ban đêm, các ngôi sao mờ nhạt
đi, những ngọn núi xa gần hiện lên rõ nét hơn, và đất đai lại hiện hình đất
đai…
Vào giờ đó, hai vợ chồng sói Acbara và Tastrainar đang trên đường đi về
núi, về phía khe Basat. Hình bóng chúng lúc thì nổi cao lên trên các gò đồi,
lúc thì hòa lẫn vào bóng tối. Chúng ủ rũ chạy nước kiệu – chúng buồn bã vì
mất con và kiệt sức vì hú liên tục suốt đêm qua. Từ đây, chúng có thể tiện
đường rẽ vào lũng núi là nơi vẫn còn lại một phần lớn thịt con bò rừng bị
giết ngày hôm trước. Thường thường chúng không bỏ lỡ dịp chén no nê thịt
tươi, nhưng lần này Acbara không thiết trở lại chỗ con mồi thuộc quyền
chúng một cách hợp pháp, còn Tastrainar thì không dám làm việc này nếu
không có sói vợ, không có anabasa.
Lúc rạng đông, khi đã đến gần hang, Acbara bỗng lao mình chạy vùn vụt
dường như lũ sói nhỏ đang đợi nó. Cảm giác tự dối mình và tự phỉnh mình
lây sang cả Tastrainar, và giờ đây cả hai đều chạy băng băng trong khe núi,
bị hối thúc bởi niềm hy vọng được mau mau gặp lại đàn con mình.
Và mọi việc đều lặp lại: sau khi trườn vào kẽ ngách giữa các bụi cây,
Acbara chạy vào khe hẻm dưới vòm đá, lại đánh hơi những ngóc ngách