súc vật mỗi năm một nhiều hơn, chỉ riêng đàn súc vật nhỏ trong nông
trường đã đến bốn chục ngàn con rồi – trước đây có nằm mơ cũng chẳng có
chuyện như vậy. Đất đai bỏ không ngày một ít đi, còn kế hoạch thì tăng lên.
Các đồng chí cứ tự xem xem, trước đây, mỗi con cừu tôi cắt được ba nghìn
bảy trăm gram lông. Còn khoảng hai chục năm trước nữa thì ai cũng biết
đấy, tôi bắt đầu với hai nghìn gram mà thôi. Tức là trong vòng hai mươi
năm, phải vất vả lắm tôi mới tăng thêm được một nghìn bảy trăm gram.
Còn bây giờ thì cứ mỗi năm kế hoạch lại tăng thêm năm trăm gram nữa, tôi
biết lấy từ đâu được? Tôi phải có phép lạ chăng? Nhưng nếu tôi không hoàn
thành kế hoạch thì cả đội tôi sẽ chẳng nhận được gì hết, mà họ thì có gia
đình. Vậy thì họ làm việc để làm gì? Họ suốt năm đi theo bầy cừu để làm
gì? Song làm sao hoàn thành kế hoạch được nếu người chăn cừu nào cũng
xoay như chong chóng để cướp giật của người khác bãi chăn thả tốt hơn,
bởi vì đất đai là của chung, không ai làm chủ cả? Biết bao vụ xô xát giữa
dân chăn cừu đã xảy ra vì các bãi chăn thả, vậy mà đồng chí là bí thư chi
bộ, tự đồng chí chẳng làm gì hết mà còn bó tay giám đốc nữa. Đồng chí
tưởng tôi không thấy hay sao?
– Việc tôi làm hay không làm là quyền nhận định của huyện uỷ. Chỉ có
điều là huyện uỷ cũng sẽ không tiếp tay cho ý kiến phiêu lưu nguy hiểm của
đồng chí đâu, đồng chí Bôxton ạ!
Lần nào câu chuyện cũng lâm vào ngõ cụt như vậy…
Và đây, số phận lại đưa Ernadar đến đội chăn cừu và Bôxton có được
một kẻ đồng chí hướng và đồng minh gần gũi. Hai người vợ của họ –
Ardưgun và Guliumcan – thường diễu cợt họ: “Thật khéo chọn nhau quá,
chẳng khác gì một cặp vợ chồng. Họ không thiết ngủ, không thiết nghỉ
ngơi, lúc nào cũng chỉ biết làm việc”.
Chính lúc đó, họ nảy ra ý định đưa đàn súc vật đi chăn thả vào mùa hè ở
bên kia đèo Ala-Mônguy. Người đề ra ý kiến đó là Ernadar. Anh bảo: “Tội