thụt xuống toàn bộ. Anh cũng nhớ lại câu rủa: “Giarakaga ket” – cầu cho
mày ngã xuống vực thẳm. Nhưng vì lẽ gì mà câu rủa đó lại giáng xuống đầu
Ernadar, và đâu chỉ có Ernadar, biết đâu nó giáng xuống cả đầu anh nữa?
Chắc hẳn vì anh chẳng bao giờ hết ham muốn, anh lúc nào cũng thấy
chưa đủ, việc gì anh cũng không hài lòng… Nếu như anh biết được là có
thể xảy ra tai hoạ như vậy…
Bôxton bò đến rìa chỗ đứt gãy và trước mắt anh hiện ra một vách đứng
đen ngòm chạy nham nhở hun hút xuống phía dưới. Anh run lên vì kinh
hoàng.
– Ernadar – Bôxton thì thầm khẽ gọi, cổ họng khô khốc. Rồi anh gào to
bằng một giọng man rợ, đứt quãng. – Ernadar, cậu ở đâu dấy? Ernadar!
Ernadar! Ernadar!
Và khi anh dứt tiếng, anh có cảm giác như nghe thấy từ phía dưới vọng
lên tiếng rên rỉ và mất tiếng nói mơ hồ: “Đừng lại gần!”. Anh liền thét lớn:
– Ernadar! Ernadar của tớ! Tớ kéo cậu lên ngay đây! Hãy chịu đựng một
chút! Tớ kéo cậu lên ngay đây!
Anh vùng dậy, bất chấp nguy cơ bị ngã xuống vực, vừa xẻ tuyết vừa
chạy đến chỗ ngựa, rồi gỡ yên cương ra: cuộn dây thừng và chiếc rìu mà họ
đem theo để đề phòng bất trắc thì đã buộc chặt vào yên ngựa của Ernadar và
bị rơi cùng Ernadar xuống vực. Bôxton rút dao khỏi bao, cắt đầu những
đoạn dây bằng da – nào dây dưới đuôi ngựa, nào yếm che ngực ngựa, nào
bàn đạp, nào đai bụng ngựa, nào dây cương và dây thắng, – anh nối lại và
buộc tất cả thành một chiếc dây duy nhất. Tay anh run rẩy vì căng thẳng nên
bị dao cắt đầm đìa máu. Sau đó anh lại hối hả chạy đến chỗ đứt gãy, lại bò
đến tận rìa vực, không còn phân biệt đường sá nữa, thở hổn hển như trong
cơn hấp hối, như sợ rằng mình sắp chết đến nơi rồi và sẽ không kịp cứu
Ernadar.