ràng là gã khiêu khích anh đánh nhau, làm om xòm lên và nện nhau một
trận chí tử. Nhưng anh đã nén lại được, anh nghiến chặt hàm và nói với
Badarbai đang thở hổn hển vì giận dữ:
– Tao chẳng có chuyện gì để nói với mày cả. Những lời lẽ của mày
chẳng có ý nghĩa gì đối với tao, và tao sẽ không bắt chước mày. Mày muốn
nói gì và nghĩ gì về tao mặc mày, còn bây giờ thì hãy cút đi. Này, anh bạn –
anh gọi người phục vụ, – nhận tiền này – anh dúi vào tay người đó tờ năm
rúp rồi lặng lẽ bước đi.
Badarbai nắm lấy tay áo anh:
– Đứng lại đã! Đừng vội về với con chó cái của mày! Biết đâu nó đang
ôm ấp một gã chăn cừu nào đấy trong lúc mày đi vắng và mày sẽ gây trở
ngại cho chúng đấy!
Bôxton vớ lấy chai sâm-banh rỗng ở bàn bên cạnh.
– Bỏ tay ra! – anh khẽ rít răng nói, mắt nhìn chằm chằm vào bộ mặt
thoáng tái đi của Badarbai. – Đừng bắt tao phải nhắc lại lần nữa, bỏ tay ra!
Mày nghe thấy không? – anh vừa nói vừa rung rung chiếc chai nặng chịch
màu tối.
Bôxton cứ nắm chặt chiếc chai như vậy mà bước ra phố. Mãi đến khi đã
ngồi trên yên, anh mới chợt tỉnh, anh quẳng chiếc chai xuống rãnh ven
đường và thúc con Đônkuliuc, mặc cho nó phi nước đại. Đã lâu anh không
phi ngựa với tốc độ điên cuồng như vậy – cuộc phi ngựa khủng khiếp ấy đã
giúp anh bình tĩnh lại và sau khi bình tĩnh lại thì anh cảm thấy kinh hoàng:
Chỉ một phần giây nhỏ nhoi thôi đã ngăn anh khỏi việc giết người, đội ơn
Chúa đã cứu thoát anh. Nếu không, chỉ cần một đòn đánh là anh đã đập vỡ
sọ tên Badarbai đáng ghét kia. Những người đi trên chiếc máy kéo rơ-móc
ngạc nhiên và không tin vào mắt mình nữa, họ nhìn theo anh hồi lâu:
chuyện gì xảy ra với Bôxton nhỉ? Một con người đứng đắn như vậy mà lại