quắc lên, lưỡi thè ra – có thể tưởng nó đã hoá điên. Không, nỗi đau đớn của
con sói mẹ mất đàn con vẫn không hề dịu đi, nó không làm sao quên được
tổn thất của nó. Linh cảm mách bảo nó một cách vô căn cứ là lũ con của nó
hiện trong chuồng cừu của Bôxton – chúng không thể ở đâu khác được, vì
kẻ bắt cóc con nó mà vào cái ngày bất hạnh kia vợ chồng nó đuổi theo sát
góc đã lẫn trốn vào đấy. Trí óc loài vật của nó không thể hiểu sâu xa hơn.
Chính vì thế mà vào những ngày ấy hai con sói đã hoành hành một cách
man rợ, đã điên cuồng tấn công các đàn súc vật khắp vùng xung quanh –
chúng làm thế đâu chỉ để thoả mãn cơn đói mà chủ yếu là do nhu cầu mãnh
liệt không lúc nào nguôi phải bóp nghẹt, phải cắn xé, phải lấy máu và thịt
lấp đầy cảm giác trống rỗng nhức nhối và nỗi giận dữ đối với thế giới. Và
sau khi đã ngốn ngấu no nê những con vật bị chúng giết chết, chúng lại
quay trở lại nơi chúng đã mất dấu vết lũ sói con. Đặc biệt đau khổ là Acbara
– nó không thể cam chịu nổi. Không có ngày nào nó không quay trở lại nơi
ấy, không có ngày nào nó không cùng với Tastrainar lang thang quanh trại
cừu của Bôxton. Bôxton đã tính toán đến yếu tố ấy sau khi quyết định giết
bằng được hai con sói bằng bất kỳ giá nào.
Hôm sau, ngay từ sáng, Bôxton ra lệnh không thả cừu ra bãi chăn mà giữ
lại trong hai chuồng cừu, đồng thời anh cũng ra lệnh cấp thêm thức ăn hạt
cho chúng và cho chúng uống nước ngay trong máng ngoài sân. Còn chính
anh đích thân chọn lấy khoảng hai chục cừu cái có con mới đẻ, phần lớn là
đẻ sinh đôi, để chúng làm ầm ỹ huyên náo hơn, rồi xua đàn súc vật không
đông lắm ấy về một phía vắng vẻ, không có đường xá.
Anh không đem theo một người nào, anh đi một mình, dùng chiếc gậy
dài xua đàn cừu. Anh khoác trên vai khẩu súng đã lau sạch hồi đêm và đã
lắp cả băng đạn, anh thong thả đi hồi lâu, phải đi càng xa chỗ người ở càng
tốt.
Thời tiết ấm áp thực sự là mùa xuân. Các ngọn núi hấp thụ hơi ấm của