ca trong một toà nhà thế tục, giữa nhiều loại công chúng khác nhau, lại là
chuyện hoàn toàn khác, nhỡ xảy ra như vậy thì sao? Liệu có gây được hiệu
quả gì không nếu như những bản thánh ca của nhạc sĩ Bắc được trình diễn
tại sân vận động hay trong doanh trại của những đơn vị đổ bộ không quân
đã quen với những khúc quân hành hùng tráng?
“Những chiếc xe bóng loáng bắt đầu chạy đến viện bảo tàng Puskin,
thậm chí có cả một xe buýt của công ty du lịch nước ngoài nữa. Tức là đã
đến giờ rồi, cạnh cổng vào ‘cung đình Italia’ đã thấy một đám đông chen
lấn nhau. Tất cả mọi người cả đàn ông lẫn phụ nữ đều có một nét gì đó
giống nhau, đó là chuyện thường xảy ra khi mọi người cùng chờ đợi một
hành động nào đấy, một biến cố nào đấy. Có người hỏi vé thừa. Tôi trao
một vé cho một sinh viên hình như bị cận thị hoặc đeo loại kính không hợp.
Và bản thân tôi chẳng thấy vui gì. Đứng giữa đám đông, anh ta bắt đầu đếm
tiền lẻ, đánh rơi xuống đất. Tôi liền đề nghị anh ta đừng làm thế và bảo rằng
vé này là do có người tặng tôi, vì thế, tôi tặng lại anh ta một vé. Nhưng anh
ta nhất định không chịu, và khi tôi đang bước vào phòng thì anh ta còn ném
mấy đồng tiền lẻ vào túi áo bludông của tôi. Dĩ nhiên là tôi cần tiền, như
người ta thường nói, tôi sống bằng đồng lương tự do nhưng eo hẹp, song dù
sao thì… Một điều nữa cũng làm tôi ngượng nghịu là đám công chúng thủ
đô ăn mặc rất phù hợp, còn tôi thì đánh chiếc quần bò cũ đã sờn, mặc chiếc
bludông tàng không cài khuy, đi đôi giày to tướng và còn cạo râu nhẵn nhụi
nữa, một việc mà tôi khó quen đến nỗi như cảm thấy như thiêu thiếu một
cái gì đó – chẳng là tôi sắp sửa đi một chuyến thật xa, đến những vùng thảo
nguyên chưa từng biết mọc đầy gai dầu dại cùng với những kẻ xa lạ chuyên
lùng kiếm anasa. Nhưng tất cả những chuyện đó chỉ là những chi tiết vặt
vãnh…
“Trong ‘cung đình Italia’ cao hai tầng, tôi cảm thấy mọi vật trưng bày
vẫn ở nguyên tại chỗ, chỉ giữa phòng có kê hai hàng ghế sát nhau dùng làm
chỗ ngồi cho chúng tôi. Không có sân khấu, không có micro, không có