thông thường là 20% lợi nhuận tích lũy và 2% phí quản lý thường niên.
(Xem chương 11 về Đầu tư khi không thể sáp nhập để biết thêm chi tiết về
sự phân bổ vốn đầu tư mạo hiểm.)
Chi phí quản lý giống như mức lương, trong chừng mực mà người nhận có
thể tin tưởng mỗi năm, bất kể vốn của họ có tăng lên hay không. Vì lý do
đó, một số nhà quan sát cho rằng điều này là lạm dụng và một số doanh
nghiệp có cách riêng để quyên góp chi phí quản lý cho các quỹ từ thiện hoặc
sử dụng các dịch vụ cho công ty khởi nghiệp của họ. Trong một công ty đổi
mới ươm tạo doanh nghiệp, nơi công ty đầu tư toàn bộ hoặc phần lớn số
vốn, thì việc quản lý tài sản là vấn đề đơn giản hơn rất nhiều so với một
doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, nơi tập hợp vốn đầu tư từ nhiều đối tác và
cổ đông hữu hạn. 2% có vẻ cao trong trường hợp này, do đó 1% chi phí quản
lý mỗi năm hợp lý hơn. Ví dụ, trong một khoản đầu tư trị giá 20 triệu đô-la,
chi phí quản lý sẽ là 200.000 đô-la được chia cho ba giám đốc điều hành,
mức bảo đảm hằng năm sẽ là 67.000 đô-la. Mức chi phí này sẽ còn tăng lên
nếu họ chứng minh được sự thành công của mình và vốn đầu tư tăng lên.
Và các giám đốc quản lý sẽ kiếm được 20% lợi nhuận tích lũy vào cuối
vòng đời của quỹ, ví dụ trong năm năm. Đến lúc đó, một số công ty khởi
nghiệp sẽ có được động lực đáng kể.
Nhóm đổi mới
Các giám đốc điều hành của công ty đổi mới cũng tương đương với những
nhà đầu tư mạo hiểm, các nhóm đổi mới cũng như những nhà sáng lập của
công ty khởi nghiệp và thù lao của họ cũng theo một công thức tương ứng.
Những nhà sáng lập thường lấy 50% mức lương tương ứng cộng thêm 20%
cổ phần trong cổ phiếu phổ thông. (Nhân viên tham gia cùng những nhà
sáng lập thường dành 90% mức lương thông thường của họ để đổi lấy quyền
mua cổ phiếu với mức giá ưu đãi.)