với "Ông bác cầm đồ". Tôi trở nên hay khó tính, cáu bẳn, có khi suốt mấy
ngày liền phải nằm một chỗ vì đau đầu. Thỉnh thoảng gặp may, tôi nhận
được năm curon nhờ đăng một bài nhỏ ở một tờ báo nào đó.
Trời mỗi lúc một sáng hơn, và tôi bắt đầu nằm đọc tin rao vặt trên các tờ
báo dán bên cửa. Thậm chí tôi đọc được cả những hàng chữ mảnh kéo dài
như những hàng răng đang nhe ra, báo rằng "ở cửa hàng ông Anđerxơn,
cửa bên phải, khách hàng có thể mua được những tấm vải liệm tốt nhất".
Cái tin này cứ bám riết lấy tôi hồi lâu; và khi tôi nhỏm dậy mặc quần áo,
chuông đồng hồ phía dưới đã điểm tám tiếng.
Tôi mở cửa sổ nhìn xuống sân, thấy chiếc dây thừng phơi quần áo và một
khoảng đất trống. Xa hơn một chút là bộ xương của chiếc lò rèn đã bị cháy
xém, xung quanh có một số người nào đó đang xúm lại bới tìm than. Tôi tì
tay lên bậu cửa sổ, đưa mắt nhìn ra xa. Rõ ràng hôm nay là một ngày nắng
đẹp. Mùa thu đã đến, cái mùa ẩm lạnh, kì lạ; vạn vật thay đổi màu sắc và
tàn úa dần. Tiếng ồn ào nổi lên trên các phố, như kêu gọi tôi đi ra khỏi nhà.
Căn phòng tôi đang ở trống rỗng, một nửa sàn nhà kêu lên rầu rĩ dưới từng
bước chân tôi bước; trông nó chẳng khác gì một chiếc quan tài tồi tàn, đáng
kinh tởm. Không có lò sưởi, không có cả một chiếc khoá tử tế trên cửa. Ban
đêm tôi thường phải lót tất ướt dưới lưng để sáng dậy chúng khô hơn một
tí. Vật an ủi duy nhất của tôi là chiếc ghế xích đu màu đỏ mà đêm đêm tôi
vẫn ngồi để suy nghĩ về đủ mọi chuyện. Khi có gió thổi mạnh, hoặc cửa ra
vào phía dưới không đóng, sàn nhà và bốn bức tường phòng tôi thi nhau rên
lên rầu rĩ, còn tờ "Tin buổi sáng" cạnh cửa thì rách thêm một miếng to bằng
nắm tay.
Tôi rời cửa sổ, bắt đầu lục tìm trong chiếc túi cạnh giường xem có gì ăn
được không. Không tìm thấy gì, tôi lại tới đứng bên cửa sổ.
"Chỉ có trời mới biết hôm nay mình có thể kiếm được việc mà làm không?"
- tôi nghĩ. Tôi đã mất hết hào hứng và sự cương quyết sau khi nhận được