Còn lại một mình, tôi nhảy chồm dậy, vò đầu bứt tóc một cách tuyệt vọng.
Không, đúng là không còn lối thoát nào nữa, hoàn toàn không! Ðầu óc tôi
không chịu phục vụ tôi thêm nữa. Chẳng phải tôi đã thành thằng ngốc đó
sao, một khi không còn làm nổi một phép trừ đơn giản về giá mấy lạng phó
mát nào đó? Nhưng thử hỏi, nếu tôi biết tự đặt cho mình những câu hỏi thế
này, lẽ nào tôi là một người điên thực sự? Lẽ nào không phải tôi, dù đang
bận tính toán, vẫn nhận thấy một cách rất chính xác rằng bà chủ có chửa?
Trước đây, tôi không biết gì về điều ấy, cũng chẳng nghe ai nói. Tự nó đến,
ngoài ý muốn của tôi; tôi nhìn thấy bằng chính đôi mắt của mình và lập tức
hiểu ngay mọi chuyện, mà lại đúng vào cái lúc tôi bất lực không làm nổi
phép tính phần mười sáu kia. Làm sao có thể giải thích nổi tất cả những
điều này?
Tôi đến bên cửa sổ, nhìn ra phố. Cửa sổ ngoảnh ra đường Vogmansgaten.
Trẻ con đang chơi trên hè phố, những đứa trẻ nghèo của một đường phố
nghèo. Chúng ném cho nhau bắt một chiếc chai không và kêu ré lên vui
thích. Một chiếc xe ngựa chậm chạp đi ngang, chở đầy các đồ đạc gia đình.
Chắc ai đó đã bị quẳng ra phố, nên mới phải dọn đi vào cái thời gian rất
không thích hợp thế này. Tôi hiểu ngay mà. Trên xe chất đống chăn màn,
gối và đồ gỗ, gồm những chiếc giường tủ mọt, những chiếc ghế ba chân,
chiếu gai và các đồ lặt vặt khác bằng sắt. Một cô bé, còn bé tí, xấu xí, với
chiếc mũi thâm bầm vì lạnh ngồi trên xe, đưa hai tay trần bám chặt càng xe
để khỏi ngã. Dưới nó là một đống nệm trải giường ẩm ướt, đen xỉn mà ở
nhà anh em nó đã từng nằm ngủ. Nó nhìn những đứa trẻ đang ném chai cho
nhau trên hè phố...
Tôi nhìn xuống phố và hiểu một cách dễ dàng những gì đang xảy ra. Ðứng
bên cửa sổ, tôi nghe rõ cô nấu bếp của bà chủ nhà đang khe khẽ hát trong
bếp, ngay sát phòng tôi. Tôi biết bài cô ta đang hát, và lắng nghe xem cô ta
có hát sai điệu không. Rồi tôi tự bảo mình rằng một người ngớ ngẩn không
thể có những nhận xét như thế được. Nghĩa là, lạy Chúa, tôi vẫn bình
thường, bình thường như bất kì ai khác.