người bám vào nó và tỏ vẻ trước đây đã nghe nói tới nó nhiều lần. Trong
lúc ấy, ông già đặt gói báo xuống ghế. Tôi cảm thấy những đợt sóng tò mò
lại dồn dập dâng lên trong tôi. Tôi nhận thấy trên tờ báo có hai vết mỡ to.
- Chủ nhà của ông có phải là thuỷ thủ không? - Ông già bé nhỏ hỏi, giọng
không hề có chút giễu cợt nào. - Tôi nhớ hình như ông ta là thuỷ thủ.
- Thuỷ thủ? Xin lỗi, chắc ông nhầm với ông em ông ta, J.A.Happôlati.
Tôi định nói thế để làm ông già cụt hứng, nhưng ông ta đã tin một cách dễ
dàng mọi chuyện.
- Tôi biết. Ông này là một người làm ăn khá lắm, - ông già nói.
- Vâng, thông minh và phát đạt lắm, - tôi đáp. - Ông ta còn là đại lí nhận
bán đủ các thứ hàng: quả viết quất nhập từ Trung Quốc, lông chim và len từ
nước Nga, ngoài ra, còn có da thú, gỗ, mực...
- Ha, ha! Quỷ tha ma bắt ông ấy đi! - Ông già vui vẻ ngắt lời tôi.
Câu chuyện trở nên buồn cười. Bị lôi cuốn, tôi nói dối hết điều này đến
điều khác. Tôi lại ngồi xuống, tạm quên tờ báo và các giấy tờ bí mật, rồi tôi
bắt đầu tranh luận một cách hăng hái, và luôn ngắt lời ông già. Sự cả tin
của ông này làm khơi dậy trong tôi một sự đểu cáng nào đó: tôi rất muốn
nhấn chìm ông ta trong lừa dối và bẻ gẫy mọi chống đỡ của ông ta, nếu có.
- Thế ông đã nghe nói đến cuốn sách Kinh chạy điện mà Happôlati sáng
chế ra chưa?
- Chạy điện... ông nói gì tôi chưa hiểu lắm.
- Một cuốn sách Kinh có những dòng chữ phát điện sáng rực trong bóng