Tôi rời cửa sổ đến đứng chính giữa phòng. Nếu cân nhắc kĩ mọi khía cạnh,
việc bà Gunnersen đuổi tôi ra khỏi phòng lúc này không có gì đáng ngại,
thậm chí còn tốt nữa là khác. Căn phòng này không phù hợp với tôi chút
nào; rèm che cửa sổ là những tấm vải xanh quá giản dị, còn tường thì có
quá ít đinh, muốn treo quần áo cũng chẳng biết treo vào đâu. Còn chiếc ghế
xích đu trong góc thực ra chỉ là cái mô phỏng đáng thương hại của một
chiếc ghế xích đu thực sự, một vật đáng buồn cười, không hơn. Thêm vào
đó, nó lại quá thấp đối với một người lớn như tôi, và quá chật, đến nỗi mỗi
lần muốn đứng dậy, phải vất vả lắm tôi mới kéo người ra nổi, khó như rút
chân ra khỏi chiếc ủng chật vậy. Tóm lại, căn phòng này không thích hợp
cho công việc trí óc, và tôi chẳng muốn ở lại đây thêm ngày nào nữa.
Không, không bao giờ! Tôi chịu đựng, im lặng và tự giam mình trong cái
hang này chừng ấy đủ lắm rồi.
Ðang ngây ngất vì niềm vui và hi vọng, vẫn chưa hết hào hứng nghĩ về tác
phẩm tuyệt vời của mình mà tôi chốc chốc lại rút từ trong túi ra đọc lại, tôi
quyết định không bỏ phí thời gian vô ích, và liền bắt tay vào thu xếp đồ
đạc. Tôi lấy chiếc túi vải - trong đó có một đôi cổ áo sạch được gói trong
một chiếc khăn mùi soa màu đỏ - và tờ báo nhàu nát tôi vẫn dùng để bọc
chiếc bánh mì mang về nhà. Tôi đem tờ báo ấy gói chiếc chăn mỏng và
mang theo tất cả số giấy viết còn lại. Sau đó tôi cẩn thận xem xét mọi ngóc
ngách trong phòng để biết chắc không quên gì. Rồi tôi đến gần cửa sổ, nhìn
ra ngoài. Buổi sáng hôm ấy trời u ám và ẩm ướt. Cạnh chiếc lò rèn bị cháy
không có người nào, còn sợi dây thừng đẫm nước ngoài sân thì được kéo
căng từ tường này sang tường khác. Tất cả những cái ấy tôi đã nhìn thấy từ
trước, vì vậy tôi vội rời cửa sổ, cắp chiếc chăn dưới nách, cúi chào tờ báo
có tin quảng cáo của người coi đèn biển và ông chủ hiệu bán vải liệm, rồi
tôi đưa tay mở cửa.
Bất chợt, tôi nhớ tới bà chủ nhà. Cần phải báo cho bà ta biết việc tôi ra đi,
kể cả việc tôi là một người tử tế. Ngoài ra, tôi còn muốn cảm ơn bà vì mấy