điên rồ, lẫn lộn. Cái tạng người của tôi là thế, ăn vào chỉ thêm khổ mà thôi.
Lạ lùng thật!
Cũng có thể tôi sẽ tìm được chỗ ngủ cho mình muộn hơn một chút, trước
khi đêm đến chẳng hạn! Chẳng việc gì phải vội. Bét ra, tôi cũng tìm được
một góc nào đấy trong rừng. Tất cả các vùng ngoại ô thành phố đều thuộc
quyền sử dụng của tôi, vả lại trời cũng chẳng lạnh lắm.
Biển đứng lặng. Những con tàu và những chiếc xà lan mũi tù nặng nề đi lại
trên mặt biển bằng phẳng màu xám, làm nước toé hai bên; khói dày bay ra
từ các ống khói như những cuộn bông, còn tiếng máy ù ù chối tai thì vang
lên như những nhát búa đánh vào lớp không khí ẩm ướt. Bầu trời lại bị mây
che kín, gió lặng, chiếc cây tôi đang tựa sau lưng sũng nước, còn chiếc ghế
đá tôi ngồi thì nhớp nháp và lạnh. Thời gian cứ trôi. Tôi bắt đầu thấy buồn
ngủ, người mệt mỏi, cái lạnh chạy xuyên qua sống lưng. Một chốc sau tôi
thấy mắt díp lại. Và tôi thiếp đi...
Khi tôi tỉnh dậy, trời đã tối hẳn. Ðầu óc đang mụ lên vì ngái ngủ và vì lạnh,
tôi đứng bật dậy, vớ lấy chiếc gói đi thẳng. Tôi đi mỗi lúc một nhanh để tự
sưởi ấm mình, tay vung mạnh, hai chân cọ vào nhau - chân tôi tê dại vô
cảm giác. Một chốc sau tôi đến bên chòi canh cứu hoả. Kim đồng hồ chỉ
chín giờ, nghĩa là tôi đã ngủ thiếp mấy giờ liền.
6.
Tôi phải đi đâu, làm gì bây giờ? Phải tìm chỗ ngủ qua đêm. Tôi đứng,
đưa mắt quan sát trạm cứu hoả và để ý xem có thể lợi dụng lúc người gác
ngủ quên, chui vào đâu đấy được không. Tôi bước lên mấy bậc, tìm cách
bắt chuyện với ông ta. Lập tức ông ta đứng nghiêm, giơ cao chiếc đao và tỏ
ý sẵn sàng nghe tôi. Chiếc đao được giơ cao lên ấy chĩa thẳng lưỡi thép sắc
ngọt vào tôi, như đang chém đứt các dây thần kinh của tôi. Tôi tê dại người
vì sợ, nỗi sợ khi đứng trước một người có vũ khí, và rồi, như cái máy, tôi từ
từ lùi lại. Tôi lặng lẽ lùi xa, xa hơn nữa. Ðể cứu vãn danh dự, tôi đưa tay