lau trán như thể vừa đánh rơi vật gì đó, rồi chuồn thẳng. Ra tới hè phố, tôi
cảm thấy nhẹ nhõm hẳn lên, như quả thật vừa tránh khỏi một mối hiểm hoạ
lớn. Tôi rảo bước đi nhanh.
Vừa đói, vừa lạnh, và mỗi lúc một thêm thất vọng, tôi vật vờ đi theo phố
Carlơ Juhan. Vừa đi, tôi vừa to tiếng chửi rủa mà không hề sợ người khác
có thể nghe thấy. Ðến Toà thị chính, cạnh con sư tử bằng đá đầu tiên, tôi
chợt nhớ tới một người quen, một hoạ sĩ trẻ tuổi mà có lần ở Tivôli đã được
tôi cứu không bị một cái tát vào má. Sau này tôi cũng có tới chơi nhà anh
ta. Tôi bật ngón tay một cách vui vẻ rồi đi tới phố Turdensongaten, tìm
ngôi nhà có tấm bảng "K.Zahary Bartel" và gõ cửa.
Chính anh hoạ sĩ ra mở cửa cho tôi; người anh ta sặc mùi bia và thuốc lá
lợm giọng.
- Chào anh, - tôi nói.
- Chào anh, anh đấy à? Sao anh lại nghĩ tới việc đến thăm tôi vào lúc muộn
mằn thế này? Dưới ánh đèn, anh sẽ chẳng nhìn thấy gì được trên tranh tôi
đâu! Từ lần gặp anh cuối cùng tới nay tôi có vẽ thêm một bức miêu tả đống
rơm và chữa lại mấy bức khác. Mời anh tới vào ban ngày, xem tranh lúc
này chỉ là việc vô ích.
- Dù sao, anh cứ cho tôi ngó một tí, - tôi nói. Tôi cũng chẳng nhớ tôi đang
nói về bức tranh nào.
- Ðiều ấy không thể được! - Anh kia đáp. - Anh sẽ chỉ thấy một màu vàng.
Vả lại. - anh ta cúi gần tôi và hạ thấp giọng tới mức thì thầm: - Vả lại, hôm
nay tôi có khách phụ nữ. Tôi không tiếp anh được.
- À, thế thì là chuyện khác.