Ông ta trợn tròn mắt nhìn tôi chăm chú và rất lâu, chắc là cố đoán chuyện
gì đã xảy ra với tôi. Sau đó ông ta khẽ nói:
- Ít ra thì đã đến lúc ông phải về nhà. Ông có cần tôi tiễn không?
- Không, cảm ơn. Tôi ngồi quên quá lâu ở quán cà phê. Cảm ơn ông.
Khi tôi đi khỏi, ông ta còn giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Vẻ lịch sự ấy
của ông ta đã làm tôi hoàn toàn bất lực. Tôi oà lên khóc vì cảm giác xấu hổ
rằng tôi không có nổi năm đồng curon để cho ông ta. Tôi đứng lại đưa mắt
nhìn theo rất lâu, tự lấy tay đập lên trán mình, giàn giụa nước mắt. Tôi
nguyền rủa bản thân tôi cùng sự nghèo đói của tôi. Tôi tìm những tiếng
chửi tồi tệ nhất, những cái tên xấu xa nhất để trút lên đầu mình. Cứ thế kéo
dài cho gần đến nhà mới thôi. Tới cổng, tôi chợt phát hiện thấy rằng tôi đã
để mất chùm chìa khoá.
"Dễ hiểu thôi, - tôi buồn bã thầm nghĩ. - Thế thì làm sao mà chẳng mất
được? Mình sống trong sân, cạnh chuồng ngựa. Gác hai là phòng làm việc
của ông thợ gò thùng. Ban đêm cổng đóng chặt, không ai, không ai trên đời
này có thể mở được nó, thế thì thử hỏi làm sao mình không để mất chìa
khóa được. Mình ướt như con chó, lại đói nữa, đói một tí thôi, nhưng cũng
đủ để cảm thấy hai đầu gối bủn rủn. Vâng, thế thì làm sao mà không để mất
chìa khoá được?..." Rồi tôi phá lên cười, cười một cách hằn học vì đói và
yếu mệt.
Tôi nghe có tiếng ngựa giẫm chân trong chuồng, nhìn thấy cửa sổ ở tầng
trên, nhưng không mở được cổng để đi vào. Vô cùng mệt mỏi và buồn bực,
tôi quyết định quay lại cổng để tìm chìa khoá.
Trời lại mưa, nước mưa chảy xuống bả vai của tôi. Ðến Tòa thị chính, tôi
chợt nảy ra một ý nghĩ tuyệt vời, nhờ cảnh sát mở cổng hộ. Tôi đến gần