vào miệng một miếng, còn miếng kia đút túi dự trữ, rồi đi tiếp. Tôi phải rên
lên vì đói. Trong cửa kính một hiệu bánh, tôi nhìn thấy một chiếc bánh mì
khổng lồ, giá những mười ere, nghĩa là chiếc bánh to nhất có thể mua được
với số tiền ấy...
- Tôi muốn biết địa chỉ anh sinh viên Peterxơn.
- Phố Bert Anker, nhà số mười, tầng sát mái... Ông tới chỗ ấy à? Nếu vậy
có thể nhờ ông chuyển hộ cho mấy bức thư này được không?
Thế là tôi lại quay vào trung tâm thành phố, bằng chính con đường mà tôi
đã tới đây, lại đi ngang tốp thợ mộc lúc này đang ăn bữa ăn trưa nóng, ngon
lành; ngang qua hiệu bánh vẫn với chiếc bánh mì vĩ đại ấy.
Cuối cùng, khi đến được phố Bert Anker, tôi mệt quá, suýt gục xuống. Cửa
vào nhà không đóng, tôi đi lên theo một chiếc cầu thang dài và thẳng đứng
cho đến tận mái nhà. Tôi rút các bức thư khỏi túi, cầm tay, định bước vào
và sẽ làm Pauli ngạc nhiên sung sướng. Tất nhiên, anh chàng sẽ không từ
chối giúp đỡ tôi, khi tôi trình bày hết hoàn cảnh của mình, tất nhiên không,
Pauli là người tốt bụng, tôi biết thế, và bao giờ cũng...
Trên cửa phòng Pauli có mảnh giấy ghi hàng chữ: "H.P. Peterxơn, sinh viên
khoa thần học đã về quê thăm nhà".
Tôi ngồi phịch xuống, ngồi ngay trên nền sàn trần trụi, không đủ sức làm
một cử động nhỏ vì yếu mệt và thất vọng. Như cái máy, tôi nhắc đi nhắc lại
mấy lần: "Về quê thăm nhà! Về quê thăm nhà!". Sau đó tôi im lặng. Hai
mắt tôi khô khốc, trong đầu không một ý nghĩ, một tình cảm nào. Tôi thờ
thẫn nhìn những bức thư và ngồi yên bất động.
Mười phút trôi qua, cũng có thể nhiều hơn, hai mươi hoặc ba mươi phút,
nhưng tôi vẫn tiếp tục ngồi yên, không một cử động nhỏ. Trạng thái đờ đẫn