Một con thỏ nhảy lên chân tôi và hốt hoảng nhảy đi theo hình zíc zắc.
Tôi nhìn theo cho tới khi nó vòng lại và mất hút sau những cánh đồng lúa
mì đã chín phía xa kia.
Một cậu bé đứng ngay giữa đường cách tôi năm mươi yard
, đang đi tè.
Cậu ta nhìn theo dòng nước tiểu cong vòng, và quan sát tôi qua khóe mắt,
uốn lưng để tia nước tiểu cuối vọt xa hơn.
Và khi cái vòng cung màu vàng của mình vẫn còn lơ lửng trong không
trung, cậu ta đột ngột bỏ đi, nhanh chóng biến mất trong bóng tối của đám
lau.
Tôi đứng ngay nơi cậu ta vừa đứng. Không thấy gì cả ngoại trừ nửa vầng
mặt trời đang lặn sáng lấp lóa qua những nhánh hoa lau phấp phới.
“Cháu có thể bước ra đây”, tôi nói, gần như không lên giọng. “Không có
gì phải sợ cả.” Tôi để ý thấy những con chim sẻ đang bay ra khỏi bờ lau.
Không nghi ngờ gì nữa, có ba chục đôi tai đã nghe thấy tiếng của tôi.
Tôi quay lại thị trấn.
Cổng đang mở. Những người lính, vũ trang đầy đủ đang lục soát quanh
dãy túp lều của dân chài. Con chó đánh thức tôi khi nãy đang chạy theo họ
từ lều này tới lều khác, ve vẩy đuôi, cái lưỡi thè dài ra và đôi tai dựng lên
nghe ngóng.
Một trong những người lính đó giơ lên cái giá đang phơi đống cá đã
được moi ruột và ướp muối. Nó bắt đầu kêu cọt kẹt.
“Đừng làm thế!”, tôi lên tiếng rồi bước nhanh về phía đó. Tôi nhận ra
một vài người trong những ngày dài bị tra tấn ở sân trại. “Đừng làm vậy,
không phải lỗi của họ!”.
Cố tình tỏ ra lãnh đạm, người lính đó giờ lại đi lững thững tới căn lều lớn
nhất, dựa người vào hai thanh chống mái lều, và cố nhổ cái mái rơm lên.
Dù đã cố hết sức, hắn ta vẫn không thể nhấc nó lên được. Tôi đã từng xem
người ta dựng những túp lều có vẻ mong manh này.