- Katia, anh không biết đường. Em phải hướng dẫn cho anh, em có nghe
anh nói không?
Ông ôm lấy vai nàng và nói tiếp:
- Em hãy ngồi thẳng dậy nào. Hãy nhìn qua cửa kính. Ôi, chiếc xe chết
bằm! Số de của chiếc xe cà tang này ở đâu?
Ông sờ soạng một cách nóng nảy cần số xe, cái cần số mà nàng đã nắm lấy
và cài vào số de một cái rẹt.
- Được rồi, bây giờ đến lượt các đèn pha, ông nói.
Barley đã tìm ra cái núm tay, nhưng để Katia bật đèn thay cho mình, làm
như thế để buộc nàng phải phản ứng. Khi xe vừa ra khỏi bãi đậu, Barley
phải cho xe đâm chệch sang bên để tránh một chiếc xe cứu thương chạy với
tốc độ tối đa. Nước bùn bắn tung tóe lên kính chắn gió. Vì không phải là
mùa mưa, Katia đã không gắn các que gạt nước. Barley buộc phải cho xe
ngừng lại, nhảy xuống lấy khăn tay lau kính, trước khi lên cầm tay lái lại.
- Rẽ trái, - nàng ra lệnh. – Cho xe chạy nhanh hơn nữa.
- Nhưng kịp thôi mà.
- Đường một chiều, nhanh lên.
Nàng im lặng, và nhất định không nói gì them nữa. Ông đưa cho nàng chai
rượu uýt-ky, nhưng nàng không cầm. Ông cho xe chạy chầm chậm, tảng lờ
những lời thúc giục của nàng. Trong kính chiếu hậu, ông thấy đèn pha của
những chiếc xe đuổi theo sau, nhưng vẫn giữ một khoảng cách. Đó là
Wicklow, ông nghĩ thầm. Đó là Paddy, Cy, Henziger. Nét mặt thất thần của
Katia thỉnh thoảng thấy rõ khi xe chạy qua dưới ánh sáng đèn đường. Nàng
có vẻ như nhìn một ảo ảnh nào đó do nàng tưởng tượng ra. Nàng cắn nắm
tay của ông.
- Hãy nói cho anh biết rẽ trái hay rẽ phải?
- Phải. Nhanh hơn nữa.
Sau khi rẽ phải, ông cho xe chạy được một lát thì nàng lại kêu to:
- Rẽ.
- Rẽ phải hay rẽ trái?
- Rẽ trái.
Nàng la hét để ra lệnh cho ông. Và sau nhưng tiếng la hét là nước mắt, là