Khang đang đọc mảnh giấy nhỏ Tư gửi bà mẹ Chẩn lên. Tối nào, bà cũng
đèo thằng con mồ côi của Chẩn lên lán ngủ. Cùng với bức thư, bà cụ còn
đem cho chúng tôi củi, - tội nghiệp! Củi ở trên này có thiếu gì? - Một mớ
rau bí, hai quả bí ngô non, bốn củ sắn và một cái bị của Tư. Trong bị, ngoài
mấy đồ dùng lặt vặt để in đá, có một cáichân giò.
Thế có bực mình không? Lúc này, ăn nửa bữa hết vừng, tôi tức mình
rang hẳn một bát để ăn cả ngày mai. Khang thái thịt ra, kho với nước lã và
muối, để ăn dè. Xương, cho vào nồi với một nắm gạo ninh nhừ để sáng mai
ăn.
Ông láng giềng to bụng, sợ đêm chó nhà ông ăn mất thịt của hai đồng
chí, sang tận nơi dặn cất vào trong cho cẩn thận. Nhưng Khang đã cẩn thận
lắm rồi. Liễn thịt để lên cao. Nồi cháo, bắc xuống cạnh đống than, đã bịt lá
lên trên vung và buộc chặt, còn phủ một lượt tre tươi và đè những súc củi
nặng chình chịch lên trên. Anh chó chắc phải rất sầu đời! Khang hứa sáng
hôm sau sẽ cho nó một bữa xương xứng đáng. Nhưng sáng hôm sau, nó
theo bà cụ về nhà. Ðennó quá!
Hôm nay, lạnh ngay từ chập tối. Chúng tôi đốt một đống lửa to, nhưng
về khuya tắt mất. Cái chăn hơi hẹp. Hai thằng nằm co quắp, xương đau
mỏi.
Thức giấc, nghe gió thổi ào ào. Trăng xiên qua kẽ mái, qua bức phên
thưa, lọt vào nhà. Tôi dậy thổi lửa, mũi hít phải tro. Sờ bếp, lạnh. Ðành lại
vào màn nằm đắp chăn, nhưng không sao ngủ được. Nghĩ loăng quăng. Vợ
con. Bà cụ nhà Chẩn. Gia đình anh ta. Người Mán...
Băn khoăn rất nhiều đến thằng con đồng chí Chẩn. Nó gầy như một
con nhái bén, mềm như một lá rau úa, suốt ngày vắt trên lưng bà cụ, trong
khi bà cụ đun bếp cũng như lúc đi lấy nước, nhặt củi hay vò lúa.