đang gióng lên từng hồi để báo cho tôi biết có vị khách không đợi
mà đến.
Song những tiếng đập do dự của chúng đánh thức tôi dậy không
thô bạo, bị lẫn với những hình ảnh cuối cùng trong cơn mơ của tôi.
Tôi nghe thấy xa xa, qua tấm màn mưa, giọng nói êm dịu của
Maêmoưna, rung rung sâu lắng, đang gọi tên tôi. Thế là tôi nhận ra
tiếng nhạc trong như thủy tinh không phải do cơn mưa tạo ra mà do
những móng tay nàng đang gõ háo hức vào cửa sổ phòng tôi. Đã bao
năm nay tôi không gặp Maêmoưna: tôi sống xa nàng, ở một lục địa
khác. Dẫu vậy, trong cơn mơ này, cơn mơ có vẻ thực hơn tất thảy
những cơn mơ khác tôi từng trải qua, giọng nàng đang ve vuốt tên
tôi. Nàng bảo tôi kể cho nàng nghe chuyện gì đã xảy đến với tôi ở Ma
rốc, kể nàng hay xem tôi đã suýt cập bến bờ nào, lần cuối cùng
chúng tôi gặp nhau. “Viết thư kể cho em chuyện đó nhé, nàng nói với
tôi; khi nào anh viết thư thì chúng ta có thể sẽ gặp lại nhau,” cứ như
thể khi viết ra câu chuyện này, tôi sẽ tạo nên những chiếc khóa vạn
năng có sức quyến rũ kỳ lạ hay niệm những câu thần chú có quyền
năng thay đổi cả cuộc đời tôi.
Thế rồi nàng bỏ đi, đưa tôi trở lại với trống vắng - hẳn chính là
cái trạng thái trống vắng mà giờ đây tôi đang cố lấp đầy bằng
ngôn từ, bằng khao khát, bằng những hình ảnh tạo nên cái cốt của
một câu chuyện, bằng những giấc mơ tôi đang dệt lên bề mặt
ngày.
Cho tới khoảnh khắc này, sự hiện diện của nàng không khác gì
trong bất kỳ giấc mơ nào, song, trước khi ra đi, Maêmoưna đã để lại
cho tôi dấu bàn tay nàng xòe ra in trên lớp bụi mưa lưu lại trên cửa
kính, dấu tay ấy dường như muốn nói với tôi: “Vĩnh biệt, em đi
đây, nhưng em vẫn ở nơi này, với anh.”