VIII. Con chim luôn lẩn trốn
Vài ngày sau, tôi có mặt ở miền Nam Tây Ban Nha. Một lần nữa,
tôi lại tới thăm những nơi gia đình tôi thường lui tới trước kia, song
lần này với ý thức như đang trải qua lễ thụ pháp. Ở Séville
, tôi vừa
ngắm con sông Guadalquivir
vừa tưởng tượng ra những ánh mắt
của tổ tiên tôi từng nhìn lên con sông này; giống như tôi, họ cũng
từng bước trên những bậc thang xoáy ốc của tháp Giralda
quá khứ cũng như giờ phút hiện tại, mặt trời lướt qua những vòm
trang trí màu đỏ và trắng của tu viện lớn Cordoue, và vẫn con chim
ư
ng vĩnh cửu ấy ngự trên vườn thượng uyển của Alhambra
, ở
Grenade.
Lẽ dĩ nhiên là không còn gì giống như xưa nữa. Sự tiếp diễn này
chỉ tồn tại trong tôi; chẳng còn lại gì nếu ta không mong ước; mọi
quá khứ đều là mong ước. Bởi vậy mà tôi tin đã trông thấy cụ tổ ba
đời của mình lên tàu đi châu Mỹ, ở Cadix
.
Chuyến du hành của tôi tới vùng đất này tựa một giấc mơ lạ. Ở
mỗi địa điểm của nơi chốn này, tôi đều muốn được lưu lại mãi
mãi, và tôi biết là sớm muộn thì tôi cũng sẽ quay trở lại mỗi thành
phố này lâu hơn. Song tôi phải ra đi, bởi tôi đã hẹn gặp được
Maêmoưna lúc đó đang ở Paris vài ngày, nàng có thể tới gặp tôi ở
Sète
, ít nhất là một đêm.
Một nhánh họ tộc nhà tôi đã nhập cư vào miền Nam nước Pháp
và định cư tại thành phố cảng nhỏ vùng Địa Trung Hải này. Ở đây,
các thủy thủ mất đi được mai táng tại nghĩa trang thủy thủ nằm trên
một ngọn đồi mạn phía trên của Sète, và họ canh cho thuyền chài
trở về.