chính xác khi nó dự đoán kết quả qua một
loạt các tình huống mà các nhà quản lý gặp
phải. Do đó, chúng tôi không tìm kiếm “sự
thật” theo nghĩa tuyệt đối; tiêu chuẩn của
chúng tôi là tính thực tiễn và hữu ích. Nếu
giúp các nhà quản lý đạt được thành công
mong muốn thì chúng tôi đã thành công. Đo
mức độ thành công của các giả thuyết dựa
trên tính hữu ích của chúng là một truyền
thống được đánh giá cao trong triết lý khoa
học, được thể hiện đầy đủ nhất trong chủ
nghĩa thực chứng logic. Xem R. Carnap,
Empiricism,
Semantics
and
Ontology
(Chicago: University of Chicago Press,
1956); W. V. O. Quine, Two Dogmas of
Empiricism (Cambridge, MA: Harvard
University Press, 1961); and W. V. O. Quine,
Epistemology Naturalized. (New York:
Columbia University Press, 1969). 19. Đây là
một thiếu sót nghiêm trọng của nhiều nghiên
cứu về quản lý. Các nhà kinh tế lượng gọi đây
là “lấy mẫu trên biến số lệ thuộc”. Nhiều tác
giả cũng như nhiều người tự coi mình là các
viện sĩ nghiêm túc đều háo hức chứng minh
giá trị của các giả thuyết của mình đến nỗi cố
tình bỏ qua phát hiện về những điều bất
thường. Trong nghiên cứu tình huống, điều
này được thực hiện bằng cách cẩn thận lựa
chọn các ví dụ chứng minh cho giả thuyết.
Trong các nghiên cứu học thuật chính quy
hơn thì điều này được thực hiện bằng cách bỏ
qua các dữ liệu không phù hợp với “giá trị