CHƯƠNG
5
H
ai ngày sau, tôi sang thăm Đubôtôpkơ. Tôi không muốn đi, nhưng
Nađêia nói: “Ngài cứ đi đi, tôi ra lệnh đấy. Ở lại đây một mình tôi sẽ không
sợ đâu”.
Đường tôi phải đi hướng về phía đông nam tòa lâu đài. Một rặng cây rậm
rạp, hai bên là khu vườn âm u như rừng, dẫn tôi đến tường rào. Chỗ này
mất một thanh sắt rào (đó là điều bí mật của Nađêia mà nàng đã hé cho tôi
biết), có thể chui qua được. Vì vậy tôi không phải đi vòng lên hướng bắc
theo rặng cây đã đưa tôi đến lâu đài, không phải đi vòng khắp khu vườn để
ra con đường dẫn đến nhà Đubôtôpkơ. Tôi chui qua lỗ hổng, bước ra một
bãi phẳng. Bên trái và trước mặt tôi là những bãi lau lách hoang vu vô tận,
lác đác vài gốc cây, bên phải là những bụi rậm, tiếp đến một dải sông con,
bên kia sông là một cánh rừng bị sình lầy làm đổ nghiêng ngả, xa nữa, có lẽ
là đến những sình lầy hiểm nghèo. Xa tít bên kia khu bãi hoang, lô nhô
những ngọn cây, chắc ở trang ấp của Đubôtôpkơ.
Tôi bước chậm rãi trên bãi hoang, thỉnh thoảng mới tìm ra đường mòn.
Mặc dù bãi hoang ngày thu trông ảm đạm, cô liêu, mặc dù đã hai lần một
con quạ to tướng bay vù trên đầu tôi, nơi đây vẫn dễ chịu hơn ở Rừng Tùng
Đầm Lầy. Cảnh vật xung quanh đều quen thuộc: những đám rêu xanh trên
các mô đất, lau sậy khô cằn, một chú chuột nhắt đang tha những bông lau
trắng vào lót ổ, sẵn sàng đón mùa đông tới.
Tôi đến nhà Đubôtôpkơ thì trời đã nhá nhem tối, các ô cửa sổ đã sáng
rực ánh đèn. Ngôi nhà cũng bình thường như mọi ngôi nhà sliăctich khác:
kiểu cổ, thấp bé, ô cửa kính nhỏ, mái lợp gỗ ván, tường quét vôi sạch sẽ, có
bậc thềm bốn cột tròn. Nhà kiến trúc tỉnh lẻ hẳn không nắm được một bí
quyết phổ biến, cho nên các cột tròn trông như hơi phồng ở đoạn giữa,
giống như những thùng rượu. Quanh nhà trồng một hàng cây đa cao to, đã