Đó chỉ còn là sự chết mòn của một bầy chuột nước rúc sâu vào hang ổ,
kiếp vật vờ của một đám hành khất mà tổ tiên ông cha từng được lưu danh
trong sổ vàng Gôrôđen. Vậy mà hậu thế giờ đây sống trong những tòa lâu
đài đổ nát, mặc những bộ quần áo tự dệt, ấy thế nhưnngài g thói kiêu ngạo
thì vô giới hạn.
Đó là cả một sự hóa dồ hóa dại không phương cứu chữa: cả một chuỗi
những hành vi đốn mạt, nhiều khi đẫm máu mà nguyên cớ có thể tìm kiếm
nơi đáy sâu những cặp mắt của những tên côn đồ và những kẻ thoái hóa.
Chúng đốt lò sưởi lát gạch men Hà Lan bằng những mảnh bàn ghế vô giá
của Bêlôruxia thế kỷ mười bảy, chúng ngồi thu lu như một lũ nhện độc
trong các tư thất lạnh lẽo, mắt nhìn chằm chằm vào đêm đen mênh mông
ngoài lớp cửa kính đang nhòa dần đi dưới màn mưa xiên xiên.
Vào đúng một thời buổi như vậy, tôi đi nghiên cứu thực địa ở N., một
huyện hẻo lánh trong tỉnh. Tôi đã chọn phải một thời buổi quá ư tồi tệ. Tất
nhiên, mùa hè, người đi sưu tầm văn học dân gian dễ chịu nhất: thời tiết ấm
áp, phong cảnh ngoạn mục. Song, những ngày cuối thu u ám hay những
đêm đông dằng dặc thường đem lại nhiều kết quả hơn cho công việc của
chúng tôi.
Ấy chính là lúc bày trò, ca hát, lúc ngồi quay tơ kể chuyện liên hồi, tiếp
đến là mùa cưới của bà con nông dân. Đó chính là buổi hoàng kim của
chúng tôi.
Khốn nỗi, công việc chỉ cho phép tôi đi và đầu tháng tám, khi chẳng ai
có thì giờ nghĩ đến kể thần thoại: trên khắp các cánh đồng chỉ nghe những
bài ca thợ gặt ê a ngân dài. Tôi đi suốt tháng tám, tháng chín, một phần
tháng mười. Tôi chỉ vừa chớp được mấy ngày cuối thư là lúc tôi hy vọng có
thể thu lượm được đôi ba điều đáng giá. Nhưng những công việc cấp bách
đang chờ tôi ở tỉnh lỵ.
Những thu lượm của tôi quá ư nhỏ bé cho nên tôi cáu kỉnh như một cha
cố đến làm lễ cho đám tang mà lại gặp vụ kẻ đã chết bỗng dưng sống lại.
Căn bênh u sầu cố hữu đang dày vò tôi – một căn bệnh gặm nhấm tâm can