với người trần tục kia mà!) thì cả các thần sẽ rời khỏi nơi đây và tôi sẽ trở
thành chủ nhân lâu đài. Tôi thuyết Bêlôrétxki rằng mối nguy hiểm chính là
đội săn. Có điều, những ảo ảnh thì nguy hiểm nỗi gì? Làm nên chuyện sẽ là
Người Lùn!
... Vàng, vàng! Cần phải xướng lên ngàn vạn bài ngợi ca uy lực của
ngươi đối với lòng người. Ngươi là tất cả: cái tã của trẻ thơ, tấm thân đã
ngã giá của thiếu nữ, tình bạn, tình yêu và quyền lực, trí tuệ của các thiên
tài, thậm chí đến cả cái huyệt tươm tất nữa. Tất cả những thứ đó, ta sẽ đạt
tới”.
Tôi vò nát trang giấy, nắm chặt tay đến đau các ngón.
– Quân đê tiện!
Bỗng giữa đống giấy tờ tay tôi sờ phải một tờ giấy da cừu gấp tư. Giở tờ
giấy ra, trải trên đầu gối, tôi chỉ còn biết lắc đầu: đó là sơ đồ tòa lâu đài
Rừng Tùng Đầm Lầy, sơ đồ từ thế kỷ XVI. Trên bản sơ đồ ấy có vẽ rõ bốn
đường truyền thanh ngầm trong tường! Những bốn đường! Nhưng chúng
đều được ngụy trang rất kín đáo, tìm được chúng không phải dễ. Một
đường dẫn từ các gian hầm dưới tòa lâu đài đến căn phòng cạnh thư viện
(hẳn để nghe trộm câu chuyện của tù nhân). Đường thứ hai nối liền thư
viện, những phòng cho gia nhân ở tầng dưới, đã bỏ không, và... phòng
riêng của Nađêia. Hai đường khác, tôi không lần ra được: Chúng đều dẫn ra
hành lang, nơi có phòng tôi, phòng Nađêia, nhưng tiếp đó bị xóa rất kỹ.
Tên vô lại đã tìm thấy bản sơ đồ ở phòng lưu trữ và giấu biệt đi.
Bản sơ đồ còn cho biết vài điều đáng lưu ý khác. Tường phía ngoài của
lâu đài có vẽ một ngách đi qua rất hẹp và ba cái cũi gì đó. Lối thoát ra được
đánh dấu ở góc ngoặt của hành lang, chỗ một lần tôi đã nạy bóc những tấm
ván bịt lối vào căn buồng trống không.
Chưa bao giờ tôi chửi thề tục tĩu như lần này. Lẽ ra tôi đã tránh được biết
bao sự rắc rối nếu như chịu khó gõ kĩ những bức tường lát ván. Tuy nhiên,
làm việc đó bây giờ vẫn chưa muộn. Tôi vơ vội cây nến, liếc nhìn đồng hồ
(đã mười rưỡi tối) và chạy ra hành lang.