Cách nhà Đubôtôpkơ chừng ba chục mét, tôi hạ lệnh cho mọi người
xuống ngựa, bao vây chặt ngôi nhà, cầm sẵn đuốc trong tay, nghe hiệu lệnh
thì cùng đốt lên. Các lệnh đều được lặng lẽ chấp hành. Tôi leo qua một bờ
rào thấp, tiến lên giữa những hàng cây táo đã rụng gần trụi lá, đứng chết
lặng dưới ánh trăng mờ ảo.
– Ai ở lại giữ ngựa? – tôi hỏi Rưgôrơ, anh vẫn luôn bám sát theo tôi.
– Một cậu trai trẻ. Có gì hắn sẽ báo động cho bọn ta. Hắn hút còi mồm
kêu to lắm, chẳng kém gì Họa mi – côn đồ
khuỵu gối.
Chúng tôi rón rén bước, giày ủng nhẹ nhàng đạp lên mặt đất đẫm sương
đêm. Tôi đến bên cửa sổ: Đubôtôpkơ đang bồn chồn đi đi lại lại trong
phòng, chốc chốc lại nhìn đồng hồ treo trên tường.
Tôi không thể nhận ra lão nữa. Trước mắt tôi là một Đubôtôpkơ khác
hẳn, và tất nhiên ở đây, khi chỉ còn một mình giáp mặt với mình, lão mới lộ
rõ chân tướng. Đã biến mất tăm vẻ hiền từ, chân thành và trìu mến, cũng
chẳng còn thấy đâu gương mặt khỏe khoắn và tươi rói của một ông già
Nôen. Đubôtôpkơ trước mắt tôi có bộ mặt vàng võ, hai mép trệ hẳn xuống,
hai bên cánh mũi hằn lên hai nếp nhăn. Cặp mắt sâu hoắm, ánh mắt đờ đẫn,
u tối. Tôi thấy ghê rợn giống như cảm giác ghê rợn của người qua một đêm
ngủ ngon trong chăn nệm êm ấm, sáng hôm sau phát hiện ra có con rắn
chui vào sưởi ghé.
“Sao ta có thể vô tâm đến thế được?” – tôi hãi hùng thầm nghĩ.
Đúng, phải kết liễu lão ta càng sớm càng tốt. Một mình lão nguy hiểm
hơn cả đội săn gộp lại. Thực may là trong cuộc ẩu đả đêm nọ tôi đã làm cho
lão mất thả năng cưỡi ngựa trong một thời gian, nếu không chúng tôi sẽ gay
go to. Lão nhất định sẽ không đâm đầu vào giữa làn đạn, sẽ không phân tán
lực lượng mà sẽ tập trung vó ngựa đè bẹp tôi cùng đám Rưgôrơ như đè một
lũ gà nhép, và hẳn giờ đây bọn tôi bị chọc mắt cắt tai, đang chìm sâu dưới
đáy bãi thụt.