cần thiết phải một mình một ngựa đến Pha Linh sào huyệt của La Văn Đờ
như đồng chí không?
— Cần thiết! Rất cần thiết! — Con ngựa bạch hất đầu, bức bối, Chính
nhìn Kiến, rắn rỏi: — Cái chúng ta cần không phải chỉ là mấy tay súng.
Đồng chí có hiểu ý mình nói không? Pha Linh không phải chỉ có La Văn
Đờ. Pha Linh là đồng bào H'Mông quần chúng của chúng ta.
Kiến chìa tay:
— Thôi được, lên đường bình an!
Nắm chặt tay người đồng chí, Chính chớp chớp mắt:
— Chú ý những điều mình đã nói với nhau đêm qua. Nắm vững sách
lược của đoàn thể.
— Tôi nhớ! Thế nào rồi bọn họ cũng phá ta. Tôi sẽ nhẫn nại. Đồng chí
mang túi thuốc chưa?
— Có rồi! Nhớ liên lạc với Châu, Đắc ở làng Nhuần. Nhắc Châu tìm
đường dây với Tâm ở tỉnh lỵ. Nghe nói đã cứu được Tâm. Tìm ngay! Quên,
còn đồng chí người Nhật, Tô-yô-ma ấy mà, bảo Đắc tranh thủ nhờ đồng chí
ấy huấn luyện cho bộ đội.
Con ngựa hồng đứng lâu đã cuồng cằng, nhoai cái cổ lờm xờm lông bờm
hí một tiếng ngắn. Chính rời Kiến. Kiến giơ tay:
— Chào Pao nhé!
Con ngựa hồng quay ngoắt, Pao không kịp chào, nhún người theo nhịp
con ngựa chạy. Con ngựa của Chính đã cách ngựa Pao mấy nhịp phi.
Cô ngựa trắng Chính cưỡi là của ông cu đầu tộc dòng họ Tần, người
Dao, ở làng Nhuần nơi đặt bản doanh của Ban cán sự tỉnh, ban lãnh đạo
công cuộc giải phóng Lào Cai, thật là cô ngựa hay. Nó hoàn toàn hiểu ý
chủ, chiều theo ý thích của chủ. Bốn vó xoải dài, mình chuyển mềm mại,
nó chạy mà như bay.
Đường ngược dốc, hun hút. Mây bụi lăn tăn tan trong nắng sớm chứa
chan cảm hứng nhuộm vàng từng chóp núi.
Núi đất tiếp núi đá, tưởng như cả đời đi cũng không ra khỏi vòng vây của
núi. Lơ thơ bóng cây chè già, vàng ánh sắc búp non trên các tán lá cao.
Loáng thoáng hình cây tông-qua-mu rũ rượi lá cành xanh đẫm. Và tràn ra,