— Cả bàn đèn thuốc phiện nữa kia!
— Hoan hô! Hoan hô!
Đó là cánh quân đông nhất của cuộc hội quân lần này: gần hai trăm lính,
nửa là lính kỵ, nửa là lính bộ từ châu Mường Cang xa xôi tới. Thật là một
đội quân có cơ ngũ tổ chức.
Tiến theo một đội hình chặt chẽ, đi đầu là một con ngựa mập, đen như
than, mắt xanh, dữ tợn. Cưỡi nó là một người gầy vêu, cứng như gỗ, mắt
trắng dã, hàm răng vổ bập chặt môi dưới, trông vừa oai vệ vừa khinh bạc,
khắc nghiệt. Y mặc áo va-rơi dạ, cúc đồng mới vàng chóe. Mái tóc dày cộm
theo nhịp chân phi của con ngựa cứ xập xòe như cái cánh gà, thỉnh thoảng
bị hất lên lại lộ ra cái sẹo to bằng đồng bạc trắng ở bên trái thái dương.
Người đó là sếp Lý Kiêu Đương, thủ túc số một của tri châu Nông Vĩnh
Yêng.
Sau Đương, ngựa xếp hàng hai. Hai con đầu màu tía, trên lưng là hai
người rập rình mềm mại như làm bằng cao su. Một người to béo, phụng
phệu, đầu như cái trứng vịt, nguyên là tướng cướp Lù Pin Dìn. Người bên
kia là sếp Thòn loắt choắt, mặt hốc hác, tai chuột, răng cắn một cái tẩu,
trang phục lính khố đỏ, ngực lủng lắng mề đay, chân quấn xà cạp, đi giày
da có đinh thúc ngựa. Cả hai gương mặt đều vênh vênh, như cậy mình là kẻ
mạnh và sau lưng buộc chặt cái khay bàn đèn. Cái vẻ mặt ấy thi thoảng còn
gặp ở đội lính đi sau. Các ông sếp trực tiếp chỉ huy các phân đội. Các phân
đội đi cách nhau chừng hơn trăm bước. Ngựa chạy nước kiệu, cổ ngất ngất
tợn tạo. Chốc chốc, dồn cự ly, chúng lại chồm vào nhau, móng sau choang
móng trước, hí rộn lên bực bội. Đoàn lính bộ đi sau xếp hàng ba, rầm rập
chân giày vải người Nùng, hải sảo người Xã, tua tủa giáo mác, súng kíp,
hỏa mai, gậy gộc; thò trên các miệng địu sau lưng là đuôi kèn pi kè, cán dù,
ống nước và dọc tẩu.
Pao buộc con ngựa hồng ở gốc cây ba-la, chạy ra gọi: "Mìn ơi!".
Một người đi sau chót hàng quân, mặt sần trứng cá đỏ thẫm, nghe tiếng
gọi tách ra, chạy tới, mừng mừng rỡ rỡ, lắp bắp: "Pao đấy à, Pao!".
Pao nắm tay bạn:
— Mìn đưa tôi địu giúp cho. Gì mà nặng thế?