Ngày tôi ra đời thì cái mùa xuân ấy cũng đa chấm dứt từ lâu. Khói lửa
chiến tranh đã thiêu rụi cả. Kế đến hiệp định Genève đã xua đuổi bao người
rời bỏ cố hương ra đi. Năm đó tôi mới đươc hai tuổi.
Tôi không biết một tí gì về cái quê hương mẹ tôi kể lại như trong thần
thoại ấy.
Anh tôi còn thuật lại cho tôi nghe những đêm giao thừa, anh được cầm
bánh pháo rắc cho nổ quanh sân, và những sáng mùng một, mở mắt nhìn
sương mù xanh biếc trước thềm, đêm lạnh làm cho mùi thơm của khói pháo
không tan hết vương vất trong gió, những cụm hoa hồng bạch, hồng nhung,
hồng nhạt, mẫu đơn, loa kèn, nhài, trổ những bông tươi thắm trên cành,
nhìn thấy lờ mờ trong sương, cây đào bên đầu thềm sai chĩu chịt hoa, hoa
đào rơi lẫn với xác pháo. Lũ chim bồ câu và mấy con chó nghe pháo nổ sợ
hãi, bay, chạy tán loạn, trở về còn nem nép nghểch đầu, vểnh tai, nghe
ngóng chực chạy nữa, ông tôi phải sai đóng cửa chuồng và xích chó lại.
Những ngày tết thần tiên ấy, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy, chỉ nghe kể
lại, chẳng khác những cánh đồng, những thôn xóm, nơi đã sinh sản ra
những câu ca dao tuyệt vời, tôi đã đọc, nhưng không biết có bao giờ được
tận mắt nhìn thấy?
Người bác đem lại danh giá cho cả họ đó, những ngày mới di cư vào
Nam, sống âm thầm trong một căn nhà nhỏ, thuê được trong một khu xóm
lao động.
Cửa sổ phòng ông trông ra một cái sân, mỗi bề chừng bốn thước, vừa
làm sân vừa làm cầu rửa. Ông đã tự tay xây thêm một cái bồn dính liền vào
chân tường chỗ cửa sổ, đổ đất, trồng mấy cây hồng.
Mỗi ngày ông tưới bón bằng bã trà trút từ trong cái ấm nhỏ đắp vào các
gốc cây và nước hứng trong một chiếc lon guigoz đục những lỗ thủng làm
bình tưới.
Những cây hồng, vào các buổi tối tôi đến thăm ông, trổ bông tươi thắm
nhưng trông buồn bã, chẳng khác những nỗi vui còn sót trong lòng ông
quan già, sống ẩn náu trong căn nhà lụp sụp.