Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và
Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan
đại tư thành trốn qua Lỗ ».
Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết
vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung
Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề
tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối
mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết.
Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng
phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày
một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về
cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý.
Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá
mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen
của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu
ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo
dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa
bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn
lo-sợ thừa lời.
*
Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là
cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử
Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép,
tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-
Thu cần có chú-giải.
Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do
ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc
để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy.