hộp âu-lo về sự sụp-đổ, thì cơ-nghiệp của Hậu-Tắc và của Công-Lưu
,
hãy còn trông-vọng được. Vì may-mắn, lời của Vương-tôn Mãn lại có hiệu-
quả rồi vua tôi nằm yên ôm gối tự nhủ cùng nhau : « Lưỡi ta còn, sợ chi
giặc ! » Sự khinh thường mối-họa, sự cậy-nương vào may mắn, có phải tại
Vương-tôn Mãn mở lối hay chăng ?
Rồi từ đó, cứ nhơn-tuần như thế, đã thành một thói quen. Hỏi về
chánh-sách trị nước thì để văn hoa đứng trước còn chánh-đức sắp sau ; hỏi
về thuật ngừa giặc thì cho biện-thuyết đứng đầu còn binh-giáp đứng cuối ;
hỏi về thuật dùng người thì trước xem dáng-điệu rồi mới đến hạnh-kiểm ;
hỏi về cách dạy dân thì cho thù-tạc đi trước còn tín-nghĩa đi sau. Về thực-tế
thì ngày càng sơ càng sái, còn về từ-hoa thì ngày càng mới càng khéo ; về
đẹp-đẽ của sách-vở thì không kém đời Văn, Võ, Khương và Thành-vương,
còn về mục-nát của hình-thế thì chẳng thua Kiệt của Hạ và Trụ của Thương.
Đến hồi chiến-quốc, trong lúc chư-hầu xé nuốt lẫn nhau mà cũng còn
dùng đến kế thừa của Vương-tôn Mãn bày-đặt ra câu « chín lần chín là tám
mươi mốt vạn người »
để dối Tề. Bên tả nói láo, bên hữu phỉnh-gạt còn
tự bảo là đắc-sách cho đến ngày quân Tần kéo ra phía đông ! Biện-bác cũng
không xong, nói gì cũng chẳng được, miệng rộng lưỡi dài cũng không thi-
thố được điều chi, phải chịu cúi đầu để cho chúng bắt làm tôi-mọi. Vậy mới
biết câu nói dối, lời không đâu, có hồi cũng chẳng còn cậy-trông vào được
mà khi biết thì đã muộn rồi !
Vì vậy ta mới bảo : công của Vương-tôn Mãn lui binh nước sở không
đủ chuộc tội của Vương-tôn Mãn đã làm hèn yếu nhà Chu !