Thật may mắn cho tổ khảo sát có người đầy kinh nghiệm
như Phùng, nếu không, hôm nay không biết điều gì sẽ xẩy ra.
Bản Soa A Viêng nằm ở lưng chừng núi Phu Đô Tuya,
nhưng địa hình lại khá bằng phẳng. Rừng già quanh bản còn
nguyên sơ. Bởi vậy, nếu đặt ở đây một kho xăng bằng bể cao su,
sẽ giữ được bí mật. Từ độ cao này, có thể đặt bãi cấp phát cách
xa vài ba cây số để cấp theo nguyên lý tự chảy. Như vậy, nếu
không may xe ra vào làm lộ bãi cấp phát thì kho vẫn an toàn.
Đây thật là một vị trí lý tưởng. Cả tổ khảo sát mừng lắm. Chỉ
trong một ngày, họ đã xác định xong vị trí của các hầm chứa bể
cao su. Ngày hôm sau, từ bản Soa A viêng, họ theo lối mòn
xuống núi, và thật dễ dàng tìm được một khu vực kín đáo làm
bãi cấp phát. Bãi cấp phát này cách kho ba cây số, đi dưới tán
rừng già, cách đường ô tô chừng một cây số. Quy ước đặt tên
kho là Q8, và bãi cấp phát là Q8Z.
Đúng như nhận định của chỉ huy Trung đoàn 953, chỉ sau
vài tháng mùa khô, đoạn đường ô tô dưới chân núi Phu Đô
Tuya đã bị đánh phá dữ dội. Rất may, hầu hết bom đánh ở bờ
phải suối, còn bờ trái, nơi tuyến đi cheo leo trên sườn núi, ẩn
mình dưới tán rừng già thì vẫn giữ được bí mật. Mặc dù vậy,
Trung đoàn vẫn không tránh được tổn thất. Ô tô chỉ có thể đổ
ống ở bờ suối, bộ đội phải vác ống vượt qua suối, rồi leo ngược
dốc hơn nửa cây số để đưa ống vào tuyến. Một số chiến sĩ đã hy
sinh vì bom bi và bom tọa độ. Khi khảo sát ở bản Soa A Viêng,
nhờ kinh nghiệm của Phùng nên an toàn, nhưng khi thi công,
hai chiến sĩ dẫm phải mìn díp.
Đầu mùa khô 1971 - 1972, trên tuyến Trường Sơn càng vào
sâu càng đói, lính cơ quan ba lạng gạo mỗi ngày, lính thi công
khá hơn: năm lạng. Sức trai trẻ, lại phải vác ống ngược dốc nên