Cô bò lại chỗ cái lỗ hổng phía mái vòm. Ngước lên nhìn Marek, cô
tháo chiếc đèn ra. “Tôi không biết liệu anh có thể làm được không, André.
Đất có thể không chịu nổi sức nặng của anh đâu.”
“Vui tính nhỉ. Cô không làm việc này một mình đâu, Kate.”
“Ừ thì, ít nhất cũng để tôi vào đó trước.”
Cô bật đèn, bật điện đàm lên, kéo cái bộ lọc xuống để có thể thở qua
đầu lọc, và bò qua cái lỗ, xuyên thẳng bóng tối phía trước.
*
*
Không khí mát mẻ đến bất ngờ. Ánh đèn vàng từ chiếc đèn pin của cô hắt
lên những bức tường đá trơ trọi, lên mặt sàn đá trống trơn. Chang nói đúng;
đây là không gian mở ngầm phía dưới tu viện. Và nó dường như kéo dài khá
xa, trước khi đất và gạch vụn bịt kín lối đi. Bằng cách nào đó căn hầm này
lại không hề bị ngập đầy đất như những căn hầm khác. Cô chiếu đèn lên
trần, cố nhìn hiện trạng của nó. Cô không thể nói chính xác được. Không tốt
lắm.
Cô bò lên phía trước bằng hai tay và đầu gối, rồi bắt đầu tụt xuống
dưới, trượt dần xuống mặt đất. Vài giây sau, cô đã đứng trong hầm mộ.
“Tôi ở đây rồi.”
Quanh cô chỉ toàn bóng tối, còn không khí thì thật ẩm ướt. Mùi ngai
ngái khó chịu vẫn xộc lên, dù đã có ống lọc. Những cái ống đó như mặt nạ
phòng độc loại bỏ hết các vi khuẩn và vi rút. Ở hầu hết các khu khai quật
khác, chẳng ai thèm đoái hoài gì đến mặt nạ, nhưng ở đây là bắt buộc, vì
bệnh dịch đã hoành hành tới vài lần trong suốt thế kỷ mười bốn, giết tới một
phần ba dân số. Có loại bệnh thì lây truyền qua chuột nhiễm bệnh, có loại
khác thì lại lây lan qua đường không khí, khi hắt hơi và sổ mũi, và do đó bất