đây rồi. Tất cả những gì chúng ta cần làm là chuyển chúng đi thôi. Rất may
đấy.”
Stern vẫn đang ngước nhìn lên. Anh đã không nhận ra những tấm kính
chắn lại lớn đến thế. Treo phía trên đầu anh, những tấm kính cong vòng kia
dễ phải cao tới hơn ba mét và rộng tới hơn năm mét, và chắc phải sâu tới
hơn nửa mét. Chúng được đưa bằng những thiết bị dạng cái địu về phía
những bệ chống đặc biệt được dựng lên ở sàn nhà bên dưới. “Nhưng,”
Gordon nói, “chúng tôi lại không có các thiết bị dự trữ. Chúng tôi chỉ có
đúng một bộ hoàn chỉnh thôi.”
“Thế thì sao?”
Gordon đi tới chỗ một trong những tấm kính đã được dựng sẵn. “Về cơ
bản, ta có thể coi những thứ này là những chiếc bình đựng rượu bằng thủy
tinh lớn,” Gordon nói. “Chúng là những cái bình chứa cong được đổ đầy qua
một cái lỗ trên đỉnh. Và khi chúng tôi đã đổ đầy nước vào chúng, chúng sẽ
trở nên rất nặng. Khoảng năm tấn mỗi chiếc. Đường cong giúp tăng sức chịu
lực. Nhưng điều làm tôi lo ngại lại chính là khả năng chịu lực ấy.”
“Sao lại thế?” Stern nói.
“Lại gần hơn đi.” Gordon lướt ngón tay lên bề mặt tấm kính. “Thấy
những cái lỗ nhỏ xíu kia chứ? Những cái chấm bé xíu màu xám ấy? Chúng
nhỏ thôi, nên ta sẽ chẳng bao giờ để ý đến trừ khi ta nhìn thật cẩn thận.
Nhưng chúng là phần lỗi mà trước đây không hề có. Tôi nghĩ vụ nổ đã bắn
những giọt a xít flohydric vào căn phòng kia.”
“Và giờ các miếng kính đã bị dính a xít.”
“Đúng. Một chút. Nhưng nếu những cái lỗ này mà làm yếu những tấm
kính, thì các tấm chắn sẽ bị nứt khi chúng được đổ đầy nước và những tấm
kính sẽ phải chịu áp lực rất lớn. Tệ hơn, những tấm kính này có thể bị vỡ nát
hết.”
“Nếu thế thi sao?”