các ngân hàng) để mua chứng khoán bằng tiền vay, do vậy chỉ phải trả một
phần nhỏ giá mua bằng chính tiền của mình. Cũng như năm 1719, năm
1929 cũng có những kẻ tay trong xảo trá, như Charles E. Mitchell từ
National City Bank hay William Crapo Durant từ General Motors, và
những người bên ngoài chân thật, như Groucho Marx.
1719, những luồng tiền "nóng" lưu chuyển giữa các thị trường tài chính đã
khiến chấn động càng lan xa và trầm trọng hơn. Và cũng như năm 1719,
chính hành động của các nhà chức trách tiền tệ đã bơm thêm quy mô của
bong bóng và của các hậu quả khi bong bóng vỡ.
Trong một công trình có lẽ là quan trọng nhất về lịch sử kinh tế Mỹ đã
từng được xuất bản, Milton Friedman và Anna Schwartz đã lập luận rằng
chính Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (gọi tắt là Fed) phải chịu trách nhiệm
trước hết về việc biến cuộc khủng hoảng năm 1929 thành cuộc Đại Suy
thoái.
Các tác giả không buộc tội Fed về chuyện bong bóng, lập luận
rằng nhờ Benjamin Strong ở Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, một
sự cân bằng hợp lý đã được tạo ra giữa nghĩa vụ quốc tế của Mỹ là duy trì
bản vị vàng vừa được khôi phục và nghĩa vụ trong nước là duy trì sự ổn
định giá cả. Bằng cách dung hòa các luồng vàng lớn chảy vào nước Mỹ (để
chúng không gây nên sự mở rộng tiền tệ), Fed đã có thể ngăn không cho
bong bóng phình to hơn. Chi nhánh New York cũng đã phản ứng một cách
hiệu quả đối với cơn hỗn độn tháng 10/1929 bằng cách tiến hành các hoạt
động thị trường mở (OMO) quy mô lớn (và không được phép) bằng cách
mua trái phiếu từ khu vực tài chính để bơm thanh khoản vào thị trường. Tuy
nhiên sau khi Strong chết do bệnh lao vào tháng 10/1928, Hội đồng Ngân
hàng Dự trữ Liên bang ở Washington đã chi phối chính sách tiền tệ, song
kết quả thu được thật tai hại. Thứ nhất, quá ít động thái được thực hiện để
đối phó với sự suy giảm tín dụng mà thất bại của các ngân hàng gây nên.
Vấn đề này đã nổi lên nhiều tháng trước khi thị trường chứng khoán sụp đổ,
vì các ngân hàng thương mại với số tiền gửi trên 80 triệu đô la ngừng chi
trả. Tuy nhiên, tình thế đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 11 và 12 năm 1930,
khi 608 ngân hàng bị phá sản, với tổng số tiền gửi là 550 triệu đô la, trong