Thực ra, thập niên 1980 đã chứng kiến sự phát triển của một loại sát thủ
kinh tế hoàn toàn khác, còn khủng khiếp hơn nhiều so với những kẻ mà
Perkins đã mô tả, chính là bởi vì những kẻ đó thậm chí không bao giờ cần
phải tìm cách dùng bạo lực để đạt được mục đích của mình. Đối với thế hệ
mới này, "bắn trúng đích" có nghĩa là kiếm được một tỷ đô la từ một vụ đầu
cơ đơn lẻ thành công. Với việc Chiến tranh Lạnh đang tiến dần đến điểm
kết thúc, những tay sát thủ đó không có lợi ích thiết thực nào để phải theo
đuổi chương trình nghị sự của chủ nghĩa đế quốc Mỹ; ngược lại, họ thường
tuyên bố khuynh hướng chính trị thiên về tự do hơn là bảo thủ. Họ không
làm việc cho các tổ chức thuộc khu vực công như IMF hoặc Ngân hàng Thế
giới. Ngược lại, họ điều hành các doanh nghiệp hoàn toàn mang tính chất tư
nhân, kín đáo đến nỗi thậm chí không có tên trên thị trường chứng khoán.
Các doanh nghiệp này được gọi là các quỹ phòng hộ, thứ chúng ta đã gặp
với tư cách là một hình thức quản trị rủi ro khác trong Chương 4. Cũng
giống như sự nổi lên của Trung Quốc, sự nổi lên thậm chí còn nhanh hơn
nhiều của các quỹ phòng hộ là một trong những thay đổi lớn nhất mà nền
kinh tế toàn cầu đã chứng kiến kể từ sau Thế chiến thứ hai. Là những nguồn
tập trung vốn điều tiết thấp
, mang tính di động cao, các quỹ phòng hộ
là hiện thân cho sự trở lại của đồng tiền nóng sau cơn lạnh trầm kha ngự trị
suốt từ lúc bắt đầu cuộc Đại Suy thoái cho tới khi kết thúc hệ thống Bretton
Woods. Và thủ lĩnh trong các thủ lĩnh (capo dei capi) được thừa nhận trong
số những sát thủ kinh tế mới là George Soros. Không phải ngẫu nhiên mà
khi thủ tướng Malaysia là Mahathir Bin Mohamad muốn đổ lỗi cho một ai
đó ngoài ông ta về cuộc khủng hoảng đã giáng xuống đồng ringgit vào
tháng 8/1997, đó chính là Soros chứ không phải IMF, người mà ông ta đã
gọi là "kẻ to xác bé đầu".
Là một người Do Thái sinh tại Hungary song được giáo dục ở London,
George Soros đã di cư sang Mỹ năm 1956. Tại đây ông đã làm nên tiếng
tăm của mình với tư cách nhà phân tích và sau đó là người đứng đầu bộ
phận nghiên cứu tại một ngân hàng tên tuổi là Arnhold & S. Bleichroeder
(hậu duệ trực tiếp của một ngân hàng tư nhân ở Berlin đã từng quản lý tiền