Hyman P. Minsky, "Introduction: Can 'It' Happen Again? A
Reprise" (Giới thiệu: Liệu "điều đó" có thể xảy ra lần nữa không? - Bàn lại)
trong Inflation, Recession and Economic Policy (Brighton, 1982), tr. xi.
Fat-tail: một thuật ngữ thống kê để chỉ những biến cố hiếm khi xảy
ra nhưng lại có hậu quả to lớn.
Chỉ số đã giảm 10% hoặc hơn vào 23 trong số 113 năm.
Xem Nicholas Brady, James C. Cotting, Robert G. Kirby, John R.
Opel và Howard M. Stem, Report of the Presidential Task Force on Market
Mechanisms (Báo cáo của lực lượng hành động của Tổng thống về các cơ
chế thị trường), gửi cho Tổng thống Hoa Kỳ, Bộ trưởng Tài chính và Chủ
tịch Hội đồng Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Washington, DC, 1/1988). Đặc
biệt đáng quan tâm đối với các nhà sử học là sự so sánh với năm 1929: xem
phụ lục VIII, tr. 1-13.
James Dale Davidson và William Rees-Mogg, The Great
Reckoning: How the World Will Change in the Depression of the 1990's
(Tính toán lớn: Thế giới sẽ thay đổi như thế nào trong cuộc suy thoái những
năm 1990?) (London, 1991).
Xem góc nhìn của Greenspan về sự kiện đó trong Alan Greenspan,
The Age of Turbulence: Adventures in a New World (Kỷ nguyên hỗn loạn:
Những cuộc phiêu lưu ở Tân Thế giới) (New York, 2007), tr. 100-110.
Đây là loại lãi suất mà các ngân hàng cho vay lẫn nhau bằng các
khoản dự trữ tại Hệ thống Liên bang, thường trong khoảng thời gian rất
ngắn, ủy ban Thị trường Mở Liên bang, gồm bảy thành viên của Ban Thống
đốc Cục Dự trữ Liên bang và mười hai chủ tịch các ngân hàng Dự trữ Liên
bang khu vực, đặt ra một lãi suất mục tiêu trong các cuộc họp thường kỳ.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York có trách nhiệm làm cho lãi suất có
hiệu lực thông qua các hoạt động thị trường mở (mua vào hoặc bán ra trái
phiếu trên thị trường New York). (TG)
Cách diễn đạt của ông mang tính khó hiểu đặc trưng: “Rõ ràng,
mức lạm phát thấp càng kéo dài liên tục đồng nghĩa với càng ít cảm giác bất
định về tương lai, và tiền bù rủi ro (risk premium) càng thấp đồng nghĩa với
giá chứng khoán càng cao... Song làm sao chúng ta biết được vào lúc nào