bình hằng năm trong giai đoạn này vượt quá 4%, cao gấp hai lần mức lạm
phát mà châu Âu từng chứng kiến trong cuộc cách mạng giá cả do việc khai
thác bạc ở Potosí mang lại. Một người đổi 1.000 đô la tiền tiết kiệm lấy
vàng vào năm 1970, thời điểm mà cửa sổ vàng vẫn còn có hiệu lực, sẽ nhận
được hơn 26,6 ounce một chút thứ kim loại quý này. Vào thời điểm viết
cuốn sách này, với mức giá vàng đạt gần 1.000 đô la cho một ounce, ông ta
có thể bán số vàng lấy số tiền 26.596 đô la.
Một thế giới không có tiền sẽ tồi tệ hơn, tồi tệ hơn nhiều, so với thế giới
hiện nay. Thật là sai lầm khi cho rằng (như nhân vật Antonio của
Shakespeare từng nghĩ) tất cả những người cho vay tiền chỉ là lũ đỉa, hút
máu các con nợ không may mắn. Những kẻ cho vay nặng lãi có thể hành
động như thế, nhưng các ngân hàng đã biến chuyển kể từ thời gia đình
Medici, nhằm mục đích (như cách nói cô đọng của Huân tước Rothschild
Đệ Tam) "hỗ trợ cho sự chuyển dịch tiền tệ từ điểm A, nơi hiện nó đang ở,
tới điểm B, nơi người ta cần tới nó".
Tín dụng và nợ, nói tóm lại, nằm
trong số những viên gạch thiết yếu cho phát triển kinh tế, đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra sự giàu có thịnh vượng của các quốc gia không kém
gì khai khoáng, chế tạo hay điện thoại di động. Trái lại, nghèo đói hiếm khi
có thể quy trực tiếp cho các mánh mung của những nhà tài chính tham lam.
Nó thường xảy ra hơn là do thiếu vắng các tổ chức tài chính, các ngân hàng,
chứ không phải do sự hiện diện của chúng. Chỉ khi nào người vay tiền tại
những nơi như khu Đông Glasgow có thể tiếp cận được các mạng lưới tín
dụng hiệu quả, họ mới có thể thoát khỏi móng vuốt của bọn cho vay nặng
lãi; chỉ khi nào những người gửi tiền đưa tiền của mình vào các ngân hàng
đáng tin cậy thì số tiền đó mới được chuyển dịch từ vốn nhàn rỗi tới những
người chăm chỉ.
Do đó, quá trình tiến hóa của ngân hàng chính là bước đi quan trọng đầu
tiên trong sự lên ngôi của đồng tiền. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ
tháng 8/2007 rất ít liên quan tới hình thức cho vay truyền thống của ngân
hàng, hay thậm chí tới các vụ phá sản mà trên thực tế đã giảm trong năm
2007 (do sự thay đổi về mặt luật pháp). Nguyên nhân chủ yếu của khủng