Bà đại úy lái chiếc Renault, còn người lính mộ đạo ngồi trên
băng ghế sau. Trên cả quãng đường, hai người họ gần như im lặng,
và điều đó khiến Orit có thoải mái thời gian nghĩ về thực tế rằng
đây là lần đầu tiên trong đời cô đi nhìn một người chết, rằng cô
luôn tìm cho mình những gã khốn nạn làm bạn trai, và cho dù đã
biết điều đó ngay từ giây phút đầu tiên, cô vẫn luôn nán lại với bọn
họ một hay hai năm. Cô nghĩ tới lần phá thai và tới mẹ cô, người tin
vào sự đầu thai và sau đó nhất quyết cho rằng linh hồn đứa trẻ
đã đầu thai vào con mèo gầy nhẳng của cô. “Hãy nghe cách nó kêu
xem,” bà nói với Orit. “Hãy lắng nghe tiếng kêu của nó, giống như
tiếng khóc của một đứa trẻ vậy. Con đã nuôi nó bốn năm rồi, và
trước đây nó chưa bao giờ kêu thế cả.” Orit biết mẹ cô chỉ nói linh
tinh, và chẳng qua con mèo chỉ đi sục thức ăn hay tìm một con mèo
cái nào đó bên ngoài cửa sổ. Chỉ có điều đúng là tiếng gào của nó
nghe giống tiếng trẻ con khóc, và nó cứ liên tục gào lên như thế
suốt cả đêm. Chút may mắn duy nhất cô có được là cô và Assi
không còn cặp với nhau nữa, vì nếu cô kể cho anh ta nghe chuyện gì
đại loại như thế, kiểu gì anh ta cũng sẽ phá lên cười. Cô cố nghĩ cả
về linh hồn của Simyon cũng như nơi anh ta đầu thai, song lại
nhắc nhở mình là cô chẳng hề tin vào mấy chuyện đó. Rồi cô lại
băn khoăn không hiểu tại sao lại đồng ý đi tới nhà xác với hai viên sĩ
quan, và tại sao cô không hề nhắc đến chuyện đám cưới chỉ là giả.
Có điều gì đó kỳ quặc trong việc tới nhà xác và nhận dạng một người
chồng. Ghê rợn, nhưng cũng kích thích nữa. Điều đó ít nhiều
giống như ở trong một bộ phim – có được trải nghiệm mà không
phải trả tiền. Assi hẳn sẽ nói đó là một cơ hội hết sảy để giành được
tiền trợ cấp góa bụa cả đời từ quân đội mà thậm chí chẳng phải
động một ngón tay, và chẳng ai trong quân đội có thể làm gì để
chống lại một giấy giá thú do một văn phòng giáo sĩ cấp. “Sẽ ổn
thôi,” bà đại úy nói, hẳn đã nhận ra những nét lo lắng trên trán Orit.
“Chúng tôi sẽ ở bên bà.”