mèm, đang ngủ gật trên một băng ghế. Ronel đoán gã là người Nga
không chỉ vì sự có mặt của chai vodka đặc trưng kẹp dưới cánh tay,
mà còn vì gã ta không ngừng cười và nói tiếng Nga trong khi ngủ.
Ronel dừng lại một phút và tự nhủ, bất chấp những rắc rối luôn
quấy quả và đôi lúc làm anh ta cảm thấy mình là người kém may
mắn, anh ta vẫn nên thấy biết ơn vì những gì mình có và cảm ơn
bất cứ ai mà những người không sùng đạo vẫn cảm ơn vì đã không để
anh ta phải xỏ chân vào đôi giày cũ mòn vẹt nhét đầy báo của gã
người Nga kia.
Tiếng cười của gã người Nga ngày càng to và trầm hơn, đè bẹp
sự chắc chắn của Ronel về niềm hạnh phúc của mình. “Ai nói
vậy?” Ronel hỏi, đột nhiên chìm ngập trong một chân lý lớn lao được
pha loãng bằng một lượng kha khá sự thương thân. “Ai nói là số
phận của mình khá hơn gã? Mình đang ở đây, trong cùng một công
viên như gã. Gã say khướt và hạnh phúc. Mình chẳng có cả hai thứ đó.
Tất cả những gì mình có trên thế gian này là một con chó đã bỏ
mình đi, một cô vợ mình không yêu, và một công việc làm ăn…” Nghĩ
tới việc làm ăn giúp anh ta phấn chấn lên chút ít. Nói cho cùng,
hiện giờ đang là một thời kỳ tăng trưởng. Không phải là điều đó hứa
hẹn niềm vui vô bờ bến, nhưng dẫu sao vào lúc này nó vẫn còn dễ
chịu hơn phải nhồi giấy báo vào giày.
Gần lối ra khỏi công viên, Ronel để ý thấy một chuyển động
rất nhanh như của một con chó trong đám bụi cây. Nhưng sau khi lại
gần xem kỹ hơn, anh ta thấy đối tượng đã gây nên hy vọng vừa tan
tành của mình là cái bóng ngắn ngủn lông lá của Schneider. Ronel,
vốn chỉ hay tới công viên này ban ngày, lấy làm ngạc nhiên khi
thấy Schneider ở đó lúc khuya khoắt như vậy. Ý nghĩ đầu tiên của
anh ta là một giác quan thứ sáu nào đó đã mách bảo Schneider rằng
Darko đã mất tích và con chó đã rời khỏi nhà cùng tham gia vào
cuộc tìm kiếm, nhưng một tiếng còi quen thuộc vang lên chấm dứt